| Hotline: 0983.970.780

Thứ Năm 30/03/2017 , 06:30 (GMT+7)

06:30 - 30/03/2017

Bất bình với phát ngôn vụ 'dâm ô với trẻ em': Phạm tội...ít nghiêm trọng!

Thông tin qua phát biểu từ ông Nguyễn Quang Long - Chánh văn phòng, người phát ngôn Viện KSND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, về vụ án “dâm ô với trẻ em”: "Do nghi can đã lớn tuổi, phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng..."

18-20-00_xm-hi-tinh-duc-tre-em
Ảnh minh họa

"Do nghi can đã lớn tuổi, phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng nên cho tại ngoại”, đã làm dư luận, đặc biệt là các nhà hoạt động xã hội, bảo vệ quyền trẻ em, gay gắt phản ứng về chi tiết “phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng”.

Pháp luật chỉ mới quy định về các loại tội phạm là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Căn cứ để phân biệt loại tội phạm là căn cứ vào mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy.

Cụ thể, khoản 3, Điều 8 Bộ luật Hình sự khái niệm các tội phạm: tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm tù. Như vậy xác định “tội phạm ít nghiêm trọng” phải căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt là không được quá 3 năm tù.

Về chuyên môn luật, luật sư Đinh Văn Quế, nguyên Chánh Tòa Hình sự TAND Tối cao, từng khẳng định “tội phạm ít nghiêm trọng” và “phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” không phải là một: “Tội phạm ít nghiêm trọng” là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến 3 năm tù (khoản 3 Điều 8 BLHS).

Còn “phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” cũng là trường hợp gây nguy hiểm không lớn cho xã hội nhưng không phụ thuộc vào mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy mà phụ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Đến nay, chưa có hướng dẫn chính thức của các cơ quan tố tụng trung ương xác định thế nào là “phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Nhưng ông cũng cho rằng, cả 2 đều là “trường hợp gây nguy hiểm không lớn cho xã hội”.

Theo quy định tại Điều 146 Bộ luật Hình sự năm 2015, có hiệu lực từ ngày 1/7/2016, thì quy định khung hình phạt về tội dâm ô như sau: “Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm”. Nếu xét về câu chữ, khung hình phạt trong luật hiện hành, thì hành vi dâm ô với trẻ em, có lẽ đang được nhìn nhận là “tội phạm ít nghiêm trọng”.

Như vậy, việc ông N.K.T (77 tuổi) bị tố cáo có hành vi dâm ô với cháu T.N.T (SN 2009), bị khởi tố theo tội danh này, và được ông Nguyễn Quang Long - Chánh văn phòng, người phát ngôn Viện KSND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, phát biểu rằng đây là “phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng”, có vẻ như không sai về luật.

Công tác bảo vệ trẻ em ở Việt Nam đang được thực hiện trên cơ sở củng cố và phát triển hệ thống pháp luật về bảo vệ trẻ em và dịch vụ bảo vệ trẻ em nhằm hạn chế tình trạng trẻ em bị sao nhãng, xâm hại, bạo lực, mua bán. Hành vi “dâm ô với trẻ em” không thể được coi là “trường hợp gây nguy hiểm không lớn cho xã hội” được. Và ông Nguyễn Quang Long đã nói không sai theo văn bản luật, nhưng có thể khẳng định, nó sai với thực tiễn cuộc sống.