| Hotline: 0983.970.780

Dân kiện việc gà, toà xử việc vịt

Thứ Hai 27/08/2012 , 14:27 (GMT+7)

Nguyên đơn là ông Nguyễn Hoàng Viên (xóm 8 xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, TP Hà Nội), còn bị đơn là UBND huyện Phúc Thọ, người đại diện theo pháp luật là ông Hoàng Mạnh Phú, Chủ tịch UBND huyện.

Ông Nguyễn Hoàng Viên tại tòa
Nguyên đơn là ông Nguyễn Hoàng Viên (xóm 8 xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, TP Hà Nội), còn bị đơn là UBND huyện Phúc Thọ, người đại diện theo pháp luật là ông Hoàng Mạnh Phú, Chủ tịch UBND huyện.

Ông Viên khởi kiện UBND huyện Phúc Thọ ra TAND huyện Phúc Thọ, yêu cầu Toà tuyên huỷ Quyết định hành chính số 842QĐ/UBND ngày 30/8/2006 của Chủ tịch UBND huyện Phúc Thọ, là quyết định giải quyết khiếu nại của ông, vì trong quá trình ra quyết định đó, UBND huyện Phúc Thọ đã có 7 hành vi hành chính sai trái, khiến quyết định hành chính trên cũng sai, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông.

TAND huyện Phúc Thọ đã thụ lý và đưa vụ kiện ra xét xử sơ thẩm. Nhưng thật lạ lùng, tại phiên toà, HĐXX (do thẩm phán Lê Văn Bình làm chủ toạ) không xem xét 7 hành vi hành chính của UBND huyện Phúc Thọ, mà lại xử về việc... đất đai của ông Nguyễn Hoàng Viên.

Ông Viên có hai thửa đất đều nằm ở xã Hát Môn. Thửa thứ nhất là đất hương hoả, có diện tích 2.544 m2. Năm 1960, gia đình ông đã giao cho HTXNN quản lý 1.080 m2 (sổ mục kê đất đai của HTXNN thời kỳ đó ghi rõ như vậy), còn lại 1.464 m2 gia đình ông vẫn sử dụng từ đó đến nay vào mục đích đất ở, không có ai tranh chấp. Điều đó đã được UBND xã Hát Môn xác nhận tại điều 1 Thông báo số 15/TB-UBND ngày 25/10/2004.

 Nhưng khi ông Viên có đơn đề nghị UBND huyện Phúc Thọ xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) thửa đất 1.464 m2 cho gia đình ông là đất ở, thì UBND huyện lại cho rằng thửa đất 2.544 m2 đó, gia đình ông đã giao toàn bộ cho HTXNN quản lý từ năm 1960, nên từ chối cấp sổ đỏ cho ông.

Thửa thứ 2 diện tích 1.918 m2, có nguồn gốc là đất của cụ Nguyễn Hoàng Bấm. Cụ Bấm không có con trai. Năm 1968, cụ Bấm mất, để lại đất trên cho em là cụ Nguyễn Hoàng Sửu sử dụng, đất đã sang tên cụ Sửu. Năm 1979, cụ Sửu nhượng lại thửa đất trên cho cụ Nguyễn Hoàng Nhân (thân sinh ông Viên). Việc chuyển nhượng này có làm giấy tờ, được HTXNN và UBND xã Hát Môn xác nhận “Đồng ý cho phép cụ Nguyễn Hoàng Sửu chuyển nhượng lại cho cụ Nguyễn Hàng Nhân vào ở”.

Gia đình ông Viên đã ở đó cho đến nay không ai tranh chấp. Năm 2000 (lúc này cụ Nhân đã mất), ông Viên nhượng bớt cho ông Nguyễn Hoàng Bảo 480 m2. Việc chuyển nhượng này cũng làm giấy tờ, được Địa chính và UBND xã Hát Môn xác nhận: “Đất của ông cha để lại không ai tranh chấp, nay nhượng bớt cho ông Bảo 480 m2 ở phía Đông là đúng”.

Sau phiên toà, ông Viên cho biết: “Tôi biết chắc là mình sẽ thua kiện, vì trước ngày mở toà, ông thẩm phán đã nói với tôi: Lẽ phải thuộc về bác, nhưng em không thể xử cho bác thắng được. Bác thông cảm, vì con (ý nói toà án huyện) không thể xử bố (ý nói UBND huyện) thua”. Tuy nhiên, đây chỉ là lời nói của ông Nguyễn Hoàng Viên mà chúng tôi không có điều kiện xác minh. Nhưng nếu đúng như thế, thì quả là một việc “xưa nay hiếm”.

Thế nhưng ngày 25/10/2004, UBND xã Hát Môn lại ra thông báo kết luận khác hẳn với những xác nhận trước đây của mình, cho rằng cụ Nguyễn Hoàng Bấm đã giao cho HTXNN quản lý 900 m2, chỉ còn lại 860 m2 đất ở. Còn Phòng TN - MT huyện Phúc Thọ, trong Kết luận số 90KL-TNMT ngày 19/6/2006, lại kết luận rằng cụ Bấm đã giao toàn bộ đất vườn, đất ao, có diện tích 1.060 m2 cho HTXNN quản lý, chỉ để lại 700 m2 đất ở.

Xã kết luận một đằng, huyện lại kết luận một nẻo, số liệu vênh váo nhau, nhưng cả xã và huyện đều có chung một điểm là không có bất cứ thứ giấy tờ, tài liệu nào chứng minh rằng gia đình ông Nguyễn Hoàng Viên đã giao toàn bộ thửa đất thứ nhất có diện tích 2.544 m2 cho HTXNN, cũng như không có bất cứ thứ giấy tờ, tài liệu nào chứng minh rằng cụ Nguyễn Hoàng Bấm đã giao 1.060 m2 đất cho HTXNN. Chính vì căn cứ trên những kết luận của UBND xã Hát Môn và của Phòng TN-MT huyện Phúc Thọ như vậy, mà UBND huyện Phúc Thọ đã ra quyết định giải quyết khiếu nại của ông Viên số 842QĐ-UBND nói trên.

Tại toà, tuy có sự xét xử “tréo ngoe”, nói theo cách của dân gian là “dân kiện việc gà, toà xử việc vịt”, như vậy, nhưng cả ông Đặng Văn Nghĩa, Trưởng phòng TN-MT huyện Phúc Thọ, người đại diện theo uỷ quyền của Chủ tịch huyện, lẫn đại diện của UBND xã Hát Môn (được Toà triệu tập với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan), đều không xuất trình được bất cứ thứ giấy tờ, tài liệu nào để chứng minh cho những kết luận trên của mình. Nhưng cuối cùng, HĐXX vẫn tuyên bác đơn khởi kiện của ông Nguyễn Hoàng Viên.

Xem thêm
Sai phạm ở loạt dự án liên quan đại gia Nguyễn Duy Hùng ở Phú Thọ

PHÚ THỌ Trong hàng loạt dự án liên quan ông Nguyễn Duy Hùng ở Phú Thọ, có nhiều dự án Báo Nông nghiệp Việt Nam và cơ quan chức năng chỉ rõ sai phạm.

Kích điện giun đất có thể bị xử phạt tới 300 triệu đồng

Theo Luật sư Dương Lê Ước An (Đoàn Luật sư TP Hà Nội), kích điện giun đất có thể bị xử phạt tối đa 300 triệu đồng hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đường lớn làm chưa xong, tỉnh lộ đã nát bét

Xe trọng tải lớn chở vật liệu thi công tuyến đường thành phố Bắc Kạn đi hồ Ba Bể chạy rầm rập ngày đêm 'cày' nát đường tỉnh 257B.

Thái Nguyên: Câu chuyện bi thảm của một vận động viên

Đó là câu chuyện về số phận bi thảm của anh Nguyễn Hồng Quang xóm Phả Lý, xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên khi không may bị phóng điện tại nương chè.

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm