| Hotline: 0983.970.780

Lúa F1 mới tự túc chưa được 10%, tại sao?

Thứ Ba 30/11/2010 , 09:26 (GMT+7)

Trao đổi với NNVN, TS Lê Hưng Quốc, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư kí VSTA cho biết lượng giống lúa lai nội, tức lúa F1 SX trong nước chỉ đáp ứng chưa được 10% diện tích gieo cấy...

TS Lê Hưng Quốc
Hôm qua (29/11), trao đổi với NNVN, TS Lê Hưng Quốc, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư kí Hiệp hội Thương mại Giống cây trồng Việt Nam (VSTA) cho biết lượng giống lúa lai nội, tức lúa F1 SX trong nước chỉ đáp ứng gieo cấy khoảng 50.000 ha (chưa được 10% diện tích).

Mặt khác ở vụ mùa lượng giống lúa lai không đáp ứng được nhu cầu SX do Trung Quốc rất ít giống kháng bạc lá, bộ giống lúa lai trong nước lại nghèo nàn, SX F1 thường rủi ro nên chỉ cung ứng được một phần diện tích gieo cấy.

Về cung cầu giống lúa lai vụ ĐX tới ra sao, thưa ông?

Nhu cầu về giống lúa lai cho vụ ĐX 2011 ở miền Bắc là rất lớn, trung bình chiếm khoảng 30% so với tổng diện tích lúa, tức là 400.000 ha cần khoảng 15.000 tấn giống. Đến thời điểm này các DN đăng kí NK khoảng 10.000 tấn, SX trong nước đáp ứng khoảng 2.000 tấn. Song nhiều khả năng DN sẽ không nhập được theo kế hoạch, do mệnh giá tệ TQ tăng, giá giống lên quá cao (dao động từ 20-25 tệ/kg). 1kg giống lúa NK sẽ tương đương từ 10-15 kg thóc thương phẩm, khoảng từ 60.000-95.000 đ/kg. Như vậy số lượng giống lúa lai sẽ không đủ cho SX.

Cụ thể sẽ thiếu khoảng bao nhiêu tấn giống?

Theo thông tin sơ bộ từ các đơn vị cung ứng giống, lượng giống nhập về cho miền Bắc khoảng 8.000 tấn cộng với lượng lúa lai F1 SX trong nước thì sẽ thiếu ít nhất 5.000 tấn. Tại cuộc họp bàn cung ứng giống hôm vừa rồi, Cty GCT Quảng Bình cho biết tỉnh hỗ trợ lúa lai 35.000 đ/kg, song người dân vùng lũ lương thực không có mà ăn, còn tiền đâu mà mua giống. Do vậy Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ kịp thời, nếu không cho dân 100% lúa lai thì phải hỗ trợ giống lúa thuần thay thế. Tuy nhiên đối với những tỉnh có diện tích lúa lai lớn như Thanh Hóa, Nghệ An thì trồng lúa thuần chỉ là giải pháp tình thế. Về lâu dài lúa lai vẫn là điểm mấu chốt để tăng sản lượng lương thực.

Một số DNNK cho rằng chúng ta bị phụ thuộc TQ về giống lúa nên vụ nào họ cũng ép giá, NK không lãi được bao nhiêu, thậm chí lỗ?

Như tôi đã nói DNNK giống lúa rất khó khăn do tỷ giá cao, khó vay vốn NK. Theo nguyên tắc thì “tiền trao cháo múc”, tức là phải trả tiền ngay phía TQ mới giao hàng. Có DN thỏa thuận được trả tiền sau nhưng khi thanh toán thì giá tệ tăng cao nên lỗ thật. Thế nên giải pháp lâu dài chúng ta phải chủ động SX giống lúa F1.

Ông vừa cho biết SX lúa lai F1 thường rủi ro, cụ thể vụ mùa 2009 các DN mất tới 700 ha tại Quảng Nam. Nếu không có chính sách hỗ trợ DN thì SX càng khó?

Đúng là việc SX F1 hiện chưa bền vững. DN được mua bản quyền giống SX nhưng để nhân được giống SX đại trà rất khó. Làm giống F1 khó ngoài yếu tố thời tiết, còn có việc mối liên kết giữa 4 nhà còn lỏng lẻo. Có điều tôi thấy bức xúc là, hàng năm Bộ NN-PTNT đầu tư hàng trăm tỷ cho một số Viện nghiên cứu làm đề tài giống lúa nhưng giống ra rất ít mà toàn in Kỷ yếu, rất lãng phí. Một vài giống bán bản quyền năm, bảy tỷ thì tự chia nhau (?). Rốt cuộc giống có ra SX đại trà được đâu.

Có ý kiến cho rằng một số giống nghiên cứu trong nước chất lượng khá cao, ngắn ngày. Các giống lúa này ở “vị trí” nào trong “làng” giống?

Kể cả giống du nhập, đến nay chúng ta có gần 1.000 giống lúa. Riêng phía Bắc chỉ có giống Xi23 của Viện KHKTNN (cũ) do PGS Tạ Minh Sơn là tác giả - là 1 trong 10 giống ở “tốp” đầu, còn lại 6 giống của TQ, 3 giống của IRRI. Gần đây trong nước có thêm vài bộ giống lúa lai 2 dòng, lúa thuần được công nhận là TBKT mới. Song việc nghiên cứu về giống lúa vẫn chưa xứng tầm quốc gia XK gạo lớn thứ 2 thế giới. Mấy anh nghiên cứu lúa lai thì lấy dòng mẹ của Ấn Độ, TQ, nghiên cứu lúa thuần lấy dòng từ Q5, Khang dân rồi làm “đột biến” cả thôi, 1 dòng mẹ có thể làm ra 10 giống…

Để ngành giống phát triển, không phụ thuộc nguồn giống nước ngoài, theo ông thì chúng ta cần có giải pháp gì?

Tôi được biết hàng năm Bộ NN-PTNT có các chương trình nghiên cứu giống, chuyển giao, ứng dụng TBKT thông qua đầu tư cho các Vụ, Viện. Kể cả chương trình giống Quốc gia cũng cho các Viện, còn DN ngành giống vẫn đứng ngoài. Một số DN được tiếp cận mô hình SX giống lúa F1 qua kênh khuyến nông nhưng thủ tục vốn nhiêu khê, phức tạp; nay lại phải đấu thầu cạnh tranh… Định mức năm tới cho mô hình lúa F1 chỉ 6 triệu/ha là quá thấp.

Ngay như Viện CLT-CTP (thuộc VAAS) mỗi năm được cấp trên dưới 30 tỷ để nghiên cứu, được ưu tiên đề tài song thử hỏi đến nay có mấy giống được công nhận? Trong khi 1 Trung tâm của Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, chỉ vẻn vẹn trên 10 người mà ra được một số giống lúa chất lượng cao, bán bản quyền tới 10 tỷ đồng. Trung tâm Nghiên cứu GCT Thanh Hóa, là đơn vị thuộc tỉnh cũng ra được một số giống lúa tốt. Một số DN như Cty CP GCT Miền Nam, GCT Miền Bắc cũng tự nghiên cứu giống ngô, giống lúa mới. Nói vậy để thấy việc đầu tư nghiên cứu khoa học cho DN hiện nay chưa đúng mức. Tại sao ngành thủy lợi, lâm nghiệp… các DN tiếp cận chương trình, dự án dễ dàng, thuận lợi đến thế mà lâu nay bên nông nghiệp vẫn cứ tắc?

Mới đây tại hội nghị cung ứng giống, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT đã yêu cầu “Vụ KHCN&MT xây dựng chính sách cụ thể, tạo điều kiện cho DN nghiên cứu, ứng dụng KHCN để có thêm các bộ giống mới đáp ứng nhu cầu SX”. Đúng là các DN rất mong chỉ đạo này, đừng gạt họ ra rìa đường nữa.

Xin cảm ơn ông!

Xem thêm
'Bóc’ các điểm chăn nuôi lợn quy hoạch đầu nguồn nước

QUẢNG TRỊ Sau một loạt các sự cố môi trường trong chăn nuôi, UBND tỉnh Quảng Trị đã quyết định đưa ra khỏi quy hoạch điểm chăn nuôi lợn đầu nguồn nước.

Truy tố những trường hợp để chó, mèo gây hậu quả nghiêm trọng

Đắk Lắk sẽ điều tra, truy tố, xử lý nghiêm những trường hợp không tuân thủ quy định trong việc nuôi, quản lý chó, mèo để xảy ra hậu quả nghiêm trọng.

Lúa đông xuân sớm được mùa, nông dân lãi 20 triệu đồng/ha

QUẢNG BÌNH Các diện tích lúa đông xuân sớm tại Quảng Bình hiện đã thu hoạch, năng suất bình quân khoảng 65 tạ/ha, nông dân lãi hơn 20 triệu đồng/ha…

Đốt rơm rạ là... đốt tiền

ĐỒNG THÁP Chưa khi nào nông dân thấy giá trị của rơm rạ như bây giờ, thu hoạch xong không đốt bỏ mà bán cho hợp tác xã, xử lý thành các sản phẩm đa dụng...

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm