Bộ GD-ĐT đang gặp khó với việc quy hoạch một số nhóm ngành nghề
Trước tình trạng ngành sư phạm và khoa học cơ bản “khát” thí sinh và có nhiều trường đã phải ngừng đào tạo, ngành Giáo dục cần làm gì để giải quyết bài toán hóc búa này?
>> Vì sao ''trắng thí sinh''
>> ''Việt Nam sẽ cạn nhân lực một số lĩnh vực''
>> Nhiều ngành học phải “khai tử”
Theo GS Phạm Minh Hạc, nguyên Bộ trưởng Bộ GD-ĐT, thì việc các ngành này không thu hút được thí sinh là hệ quả tất yếu đã được nhìn thấy trước. Thời gian trước đây các Bộ, Ban, Ngành ở các cấp đã không làm tốt công tác quy hoạch và dự báo nguồn nhân lực. Hơn nữa, quy hoạch phát triển giáo dục ĐH cũng yếu kém nốt, dẫn đến tình trạng nở rộ các trường ĐH trong cả nước (và chỉ tiêu tuyển sinh các trường này tăng đều theo mỗi năm), khiến hậu quả như bị “nhân đôi”.
Cụ thể: Từ năm 1998-2009, cả nước có tới 312 trường ĐH, CĐ được thành lập mới. Tỉ lệ sinh viên/1 vạn dân năm 1997 là 80 và tỉ lệ này đã tăng hơn gấp đôi vào năm 2009 (195 sinh viên/1 vạn dân). Trong khi đó, chưa một địa phương nào có một dự báo cụ thể, chi tiết một cách khoa học, chính xác về nhu cầu nhân lực các ngành nghề của mình để ngành giáo dục theo đó mà bắt tay vào đào tạo cho đúng hướng, phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế địa phương. Như vậy, ngành giáo dục cứ đào tạo ở “ốc đảo”, trường mở ra đến đâu thì đào tạo đến đó mà không biết cử nhân ra trường sau này sẽ được bố trí, sắp xếp thế nào.
Còn trong vấn đề quy hoạch phát triển giáo dục ĐH, việc nở rộ các trường ĐH khiến nước ta có quá nhiều ĐH nhưng lại thiếu các trường ĐH tốp dưới đáp ứng cho đại đa số người có nhu cầu học tập và làm việc ngay tại các địa phương. Ngược lại, Bộ GD-ĐT để ĐH tốp giữa phát triển quá nhanh khiến các trường bị thừa và mạng lưới bị lộn xộn, càng gây khó khăn cho công tác sắp xếp, cải tổ và quản lý đào tạo.
Chưa hết, việc tổ chức các trường ĐH, CĐ tràn lan ở VN hiện nay, theo GS Hạc là không góp phần cải tạo được tâm lý “chạy theo bằng cấp” và ngành giáo dục đã không tổ chức được biện pháp phân ngành nghề, chỉ chú tâm phát triển hệ đại học, còn đào tạo nghề, trung cấp chuyên nghiệp lại không được ngó ngàng. “Giáo dục theo nhu cầu xã hội cũng đã có nhưng chưa cụ thể. Trong khi đó, lại cho tự phát mở trường ĐH theo tâm lý cốt cứ có bằng đại học là được chứ không quan tâm đến thực nghiệm hay tính đến đầu ra sau này”, GS Hạc nói.
Hậu quả nay đã hiện hữu: Nhiều cử nhân ra trường không xin nổi việc làm (vì không có việc làm mà xin hoặc nếu có cũng không đủ trình độ thực sự để đảm đương công việc), họ đành làm những việc linh tinh để kiếm sống (nhất là với ngành sư phạm, khoa học cơ bản thì phạm vi làm nghề trái tay là hạn hẹp). Một bức tranh không có điểm sáng như thế, theo GS Hạc, sẽ khiến người học “rụt” lại với những ngành này.
Cũng theo nguyên Bộ trưởng Bộ GD- ĐT, thách thức này không chỉ đặt ra cho ngành giáo dục trong mùa tuyển sinh năm nay mà theo quy luật, nó sẽ còn tồn đọng trong ít nhất là vài năm tới (nếu bài toán này được giải quyết), cho đến khi “phần thừa” đã giảm và cán cân cung – cầu về nhân lực được cân bằng trở lại thì các ngành này mới có thể có đủ sức để thu hút thí sinh quay về.
Bên cạnh đó, GS Hạc cũng cho rằng cần có chính sách đãi ngộ xứng đáng để khích lệ người học theo học những ngành này. Hiện nay, mức lương giáo viên hoặc những người làm nghiên cứu quá bất cập. Báo chí đã lên tiếng quá nhiều lần nhưng chưa thấy có dấu hiệu cải thiện.