| Hotline: 0983.970.780

XK gạo: Nên bỏ lượng, theo chất

Thứ Hai 12/03/2012 , 10:02 (GMT+7)

Giải pháp tối ưu nhất hiện nay trong SX lúa gạo phục vụ XK chính là “cánh đồng mẫu lớn”.

Hội thảo chuyên đề “Việt Nam có nên mở rộng XK gạo?” do Viện chính sách chiến lược phát triển NN-NT (Ipsard) tổ chức mới đây, ông Nguyễn Đình Bích, chuyên gia phân tích thị trường lúa gạo, cho biết, XK gạo năm nay khó khăn.

Trước hết là do thế giới được mùa lương thực. Lúa mì, lúa gạo, sắn và hầu hết các loại ngũ cốc đều giảm giá. Trước đó, năm 2011, khi giá gạo biến động tăng thì nhiều nước đã NK với số lượng lớn khiến tồn kho cuối năm nhiều. Theo dự báo nhu cầu NK gạo trong năm 2012 sẽ giảm. Với Việt Nam là cường quốc XK gạo thứ 2 thế giới, khi thế giới giảm nhu cầu NK gạo thì chắc chắn chúng ta sẽ gặp khó khăn.

Điều bất ngờ nhất trên thị trường lúa gạo thế giới là, tính về khối lượng XK trong 2 tháng đầu năm 2012, Việt Nam đã bị đẩy xuống vị trí thứ 4. “Tuy nhiên điều này chưa đáng lo, tình hình có thể được cải thiện trong thời gian tới. Bởi vì, theo số liệu thống kê mới đây của VFA, tiến độ XK gạo của Việt Nam sang thị trường châu Phi đã khả quan hơn. Thứ hai, Philippines là bạn hàng NK gạo lớn của Việt Nam trong nhiều năm qua sắp trở lại thị trường, vì mùa mưa bão đang đến rất gần, buộc họ phải NK trước thời điểm bão đến. Khi đó, gạo phẩm cấp thấp (25% tấm) sẽ có thị trường tiêu thụ tốt hơn”, ông Bích dự báo.

Theo vị chuyên gia này, nhu cầu gạo phẩm cấp thấp trong những năm vừa qua rất lớn, cho nên Việt Nam đã phát triển những giống lúa chất lượng thấp nhưng đạt năng suất cao. Nhưng năm 2012, nhu cầu gạo phẩm cấp thấp sẽ giảm, tỉ lệ gạo chất lượng cao sẽ tăng lên. Ông Bích khuyến cáo rằng, DN cũng như nông dân nước ta cần bám sát theo những “tín hiệu” của thị trường, để chuyển đổi mô hình sản xuất cho phù hợp.

Trong năm 2011, XK gạo thơm của chúng ta đã tăng khá, tỉ lệ gạo phẩm cấp cao cũng sẽ dần tăng lên. Với gạo thơm XK sang thị trường Hồng Kông, dù chất lượng có thể thấp hơn so với các nước khác trong khu vực, nhưng chúng ta có lợi thế là giá rất cạnh tranh. Cho nên, gạo của chúng ta vẫn có thể chiếm lĩnh được tại những thị trường này. Vấn đề quan trọng nhất bên cạnh chất lượng là giá thành. Do đó, khi hướng đến sản xuất gạo phẩm cấp cao, Việt Nam vẫn có “cửa” để XK, chứ không đến mức không thể cạnh trạnh được.

Còn theo ông Nguyễn Trí Ngọc, Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), sản lượng lương thực của nước ta liên tục tăng cao. Bình quân trong giai đoạn 2001-2011, mỗi năm chúng ta tăng 1,27 triệu tấn lương thực có hạt. Nhờ vậy, mặc dù dân số tăng nhanh, nhưng bình quân lương thực đầu người từ mức 435 kg năm 2001 đã tăng lên đạt 529 kg trong năm vừa qua. Tuy nhiên, ông Ngọc nhận định, sản lượng lúa gạo tăng đã đạt đỉnh, tương lai khó có thể tăng hơn nữa, vì trồng lúa đang đối mặt với nhiều thách thức. Diện tích trồng lúa đang bị đe dọa giảm dưới sức ép phải nhường đất cho công nghiệp hóa. Diện tích đất trồng lúa bình quân đầu người rất thấp (chỉ 600 m2/người), sản xuất manh mún nên rất khó áp dụng cơ giới hóa để tăng năng suất.

Giải pháp tối ưu nhất hiện nay trong SX lúa gạo phục vụ XK là “cánh đồng mẫu lớn”. Từ mô hình này, chúng ta hoàn chỉnh được hệ thống thủy lợi và giao thông, mỗi cánh đồng chỉ sử dụng 1-2 giống lúa, áp dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật trong canh tác và thu hoạch...”, ông Nguyễn Trí Ngọc.

Khối lượng gạo hàng hóa XK tuy lớn, nhưng do 1 triệu hộ nông dân sản xuất với vô vàn giống khác nhau, khó kiểm soát chất lượng và độ thuần nhất về chủng loại sản phẩm. “Vấn đề nan giải nhất trong chuỗi giá trị của ngành hàng lúa gạo là có quá nhiều khâu trung gian. Lúa xuất bán từ nông dân đến các DN XK phải qua tay quá nhiều thương lái, họ đã lấy đi phần lớn lợi nhuận của nông dân, khiến nông dân được hưởng thù lao rất thấp”, ông Ngọc nhận xét.

Tại hội thảo, hầu hết các chuyên gia đều cho rằng, sản lượng lương thực nước ta khó tăng lên được nữa. Trong khi đó, những năm tới và ngay cả trong năm 2012, nhiều nước NK gạo lớn sẽ gia tăng đầu tư để sản xuất lúa của họ, giảm dần khối lượng NK. Vì vậy chiến lược của ngành hàng lúa gạo không nên tiếp tục đi theo hướng mở rộng khối lượng XK, mà cần tập trung vào tăng chất lượng để nâng cao giá bán, đồng thời cơ cấu lại chuỗi tiêu thụ lúa gạo để tăng lợi nhuận cho nông dân. Có như vậy, sản xuất và tiêu thụ lúa gạo mới bền vững và ổn định lâu dài.

Xem thêm
Hội chợ xúc tiến thương mại khu vực kinh tế tập thể, hợp tác 2024

Hội chợ diễn ra từ 18-22/4 tại phố Trần Nhân Tông và công viên Thống Nhất, Hà Nội với sự tham gia của 120 HTX từ 44 tỉnh thành và 30 doanh nghiệp.

350 lao động Đồng Tháp sang Hàn Quốc làm nông nghiệp thời vụ

Đã có 350 người lao động Đồng Tháp trúng tuyển để xuất cảnh đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc trong tháng 3 và tháng 4/2024.

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm