Giữa cộng đồng người Thái sinh sống lâu đời ở xã Ẳng Nưa (huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên) có một bản người Mông hết sức kỳ lạ. Bản của những người Mông trồng cà phê. Đây cũng là bản người Mông giàu nhất mà tôi từng chứng kiến.
Từ chuyện người Mông trồng cà phê
Lên huyện vùng cao Mường Ảng công tác nghe Bí thư Huyện ủy Nguyễn Đức Vượng khoe: Ông đã thấy người Mông trồng cà phê, đào ao nuôi cá bao giờ chưa. Nếu chưa thì đi vào Ẳng Nưa với tôi một chuyến.
Mường Ảng xưa nay là thủ phủ của người Thái. Những xã như Ẳng Cang, Ẳng Nưa, Búng Lao, Ẳng Tở hầu như chỉ có duy nhất người Thái sinh sống mà thôi. Vậy mà ở khu đồi C2, một căn cứ cách mạng ngày xưa của xã Ẳng Nưa lại xuất hiện một bản người Mông trồng cà phê như lời vị Bí thư Huyện ủy nói.
Nhà cửa, trang phục, thậm chí những bản nhạc phát ra từ ti vi của các hộ dân ở đây cũng đều bằng tiếng Mông. Nếu tính lịch sử, bản Củ chỉ mới hơn 15 năm. Ông Vượng bảo rằng, đây là bằng chứng rõ ràng nhất cho ý chí vượt lên gian khổ, chinh phục thiên nhiên của đồng bào vùng cao.
Năm 1997, thời điểm ông Nguyễn Đức Vượng còn làm Trưởng ban Phong trào của Tỉnh đoàn Lai Châu. Lúc ấy Lai Châu và Điện Biên cũng chưa tách làm hai như bây giờ nên Mường Ảng xa trung tâm tỉnh lỵ gần 200 cây số. Chính sách cũng vì thế mà khó đến, người dân ở các bản làng cứ loay hoay, hết chuyển đổi trồng cây này đến cây khác nhưng đói nghèo chẳng chịu buông tha.
Trong cái vòng luẩn quẩn ấy, xã nghèo Ẳng Nưa chẳng khác nào một người vừa trải qua cơn bạo bệnh. Toàn bộ diện tích cây mắc ten, loài cây ép dầu xuất khẩu phải chặt bỏ hết sau khi thị trường chính là Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Đất hoang hóa, dân nghèo, nhưng lạ ở chỗ là cả một khu đất rừng giao cho dân để trồng lại cây cà phê thì không một ai dám nhận.
Người Mông trồng cà phê ở bản Củ
Họ sợ. Bởi cũng đã có một thời cây cà phê bị đem làm củi như số phận cây mắc ten bây giờ. Hô hào quá, ép quá thì họ cũng chỉ xuôi xuôi rồi để đấy chứ chẳng chịu làm. Thậm chí, người Thái ở Ẳng Nưa tự chọn cho mình cách thoái thác bằng việc ra điều kiện được xem là nhiệm vụ bất khả thi thời điểm ấy: Chừng nào người Mông trồng được cà phê thì chúng tôi mới làm.
Giữa tình thế cấp bách, ông Nguyễn Minh Quang (Bộ trưởng Bộ TN- MT bây giờ) lúc ấy còn làm Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu, phụ trách lĩnh vực nông nghiệp đã có chỉ thị giao cho Tỉnh đoàn Lai Châu phải thể hiện được vai trò xung kích, bằng mọi cách phải khôi phục lại diện tích cà phê trên đất Mường Ảng, kể cả làm cái việc chưa hề có tiền lệ là đưa người Mông ở các đỉnh núi về trồng cà phê.
Trên đỉnh đèo Pha Đin có một bản đồng bào Mông thuộc xã Tỏa Tình (huyện Tuần Giáo) sinh sống. Bản Ho Xa đúng như cái tên của nó, là nơi cao nhất, xa nhất, khó khăn và khắc nghiệt nhất của cả tỉnh Điện Biên. Không điện, không nước, đất sản xuất ít ỏi, gia tài của họ là gió, là sương mù, là những đợt rét thấu xương vào mùa đông và những trận cuồng phong của gió Lào mùa hạ.
Cũng may, nhờ cái khổ ấy mà Tỉnh đoàn Lai Châu chọn được 14 hộ dân trẻ tuổi xuống lập làng thanh niên lập nghiệp để thực hiện nhiệm vụ thí điểm trồng cà phê trở lại ở xã Ẳng Nưa.
Gọi là làng thanh niên lập nghiệp nhưng hầu hết thanh niên đầu đã có gia đình. Họ được giao 20 ha đất rừng nằm tách biệt hoàn toàn với những bản làng xung quanh. Sứ mệnh thì cao cả nhưng thực tế chất chứa muôn vàn những khó khăn. 14 hộ dân, tay trắng đến bản Củ nhưng chỉ được giao đất rừng để trồng cà phê thôi, chẳng có thêm bất cứ hỗ trợ nào, bi đát thậm chí còn hơn cả ở quê cũ trên đỉnh đèo Pha Đin.
Hai hộ không chịu được khổ phải bỏ về, còn lại 12 hộ chung tay dựng nhà tạm, đi mua chịu cây giống, phân bón về, từng bước, từng bước trồng cà phê. Cái ăn thậm chí cũng chả có. Một ít gạo ngô đưa từ quê cũ dần dần cũng hết. Nhiều bữa bụng đói lên rẫy, đào được củ gì thì ăn củ nấy. Ruộng không có, 12 hộ dân trồng ngô xen lẫn diện tích cà phê để ăn dần. Không có nước thì đi xuống suối cõng về, dù suối xa mất cả ngày đi bộ.
Ơn trời, những khó khăn ấy dần qua, khi cây cà phê trên đất Mường Ảng cho quả cũng là lúc làng thanh niên lập nghiệp đủ cái ăn, cái mặc. Một vụ, rồi hai vụ, bản người Mông không chỉ sống được với cây cà phê mà còn sống khỏe. Họ giàu. 20 ha đất rừng hoang hóa lần lượt đẻ ra những đôi vợ chồng người Mông giàu nhất huyện Mường Ảng bây giờ.
20 ha đất hoang hóa ấy, nếu tính theo giá trị bây giờ thì rơi vào khoảng 50 tỷ đồng.
Đến bản Mông tỷ phú
Đến làng thanh niên lập nghiệp ở bản Củ, lần đầu tiên được thấy người Mông trồng cà phê đã đành, tôi còn thấy họ đào ao nuôi cá, thấy họ chơi cầu lông sau những buổi lên nương rẫy, thấy họ bơi bên bể nước dẫn từ suối Vách Đá dưới dãy Mường Phăng về…
Lạ nhất là chuyện, một bản người Mông hầu như nhà nào cũng tự sắm cho mình két bạc cả. Mỗi gia đình xây nhà trên một quả đồi, xung quanh là bạt ngàn cà phê xanh ngút mắt, nhìn chẳng thua gì mấy khu nghỉ dưỡng của các đại gia lắm tiền nhiều của. Quả thật, nếu phải tìm bản người Mông giàu hơn nơi này thì chỉ có thể là những bản làng buôn bán ma túy ở các vùng biên giới mà thôi.
Cuộc sống sung túc ở bản Củ bây giờ
Vợ chồng Lầu Vả Mua là một trong số những hộ dân bám trụ lại làng thanh niên lập nghiệp thuở cơ hàn. Một quyết định mà bây giờ, mỗi lần ngồi uống rượu cùng nhóm ở lại ngày xưa là Mua đưa ra để giáo huấn vợ, lên mặt với bạn bè. Đại ý của Mua muốn thể hiện tầm quan trọng của người chủ gia đình, kiểu “nếu tao không kiên quyết thì làm gì có ngày hôm nay”.
Lầu Vả Mua tự hào cũng phải. Ngày mới lên, nhìn cảnh đồi núi hoang vu thì vợ Mua hãi quá. Đó là một người chưa hề biết cây cà phê là gì, thậm chí còn tưởng trồng cà phê để lấy quả ăn như người ta trồng lúa, trồng ngô thôi. Bản thân Mua cũng chỉ ngờ ngợ, gã biết đến cây cà phê là nhờ việc được đi tham quan cùng đoàn thanh niên cách thời điểm ấy chỉ có mấy ngày.
Con cái nheo nhóc, vợ đòi về quê cũ nhưng Mua nhất quyết bám trụ lại. Cũng chẳng phải vì gã có niềm tin vào cây cà phê sẽ làm gia đình mình giàu có. Ở lại vì tiếc mấy đám ngô đang trồng dở, nếu bỏ về thì người ta sẽ phá mất thôi. Định bụng thu hoạch ngô xong thì vợ chồng con cái kéo nhau về, nhưng ba bốn bận, thấy anh cán bộ Tỉnh đoàn Nguyễn Đức Vượng nài nỉ quyết liệt quá nên Mua "cãi vợ" mà ở lại.
Ngày hôm nay của gia đình Mua là 5 ha cà phê đã cho thu hoạch, mỗi năm trừ đi chi phí lãi ròng khoảng 500 triệu đồng. 6 vụ cà phê gần đây, vụ nào cũng thắng lợi, tính sơ sơ đã có 3 tỷ đồng rồi. Trong căn nhà cấp bốn được xây theo lối hiện đại mà Mua bảo rằng chỉ hết khoảng hơn 1 tỷ đồng chẳng thiếu một thứ gì.
20 ha đất hoang hóa bây giờ đẻ ra nhiều đại gia đã đành, trạm y tế, trường học mọc lên khiến bộ mặt của bản Củ ngày một thay đổi. Một số kẻ lắm tiền của dưới xuôi lên mua lại rẫy cà phê của dân bản để đầu cơ, nhưng không đủ tiền chồng lại lủi thủi đi về. “Tiền bạc với người dân giờ không còn quá quan trọng như ngày xưa. Nếu ai biết được công sức, xương máu họ bỏ ra để xây dựng mảnh đất này thì có lẽ chẳng tiền bạc nào có thể mua nổi”, ông Nguyễn Đức Vượng chia sẻ. |
Bản Củ giờ đã đông đúc. Những hộ dân người Mông, người Thái, người Kinh lên trồng cà phê ngày một nhiều. Mặc dù vậy, không một ai có thể "qua mặt" những hộ dân đầu tiên lên đây về tiền bạc. Sau kỳ tích của họ, cây cà phê trở thành cây trồng chủ lực trên đất Mường Ảng.
Mỗi năm, huyện ra chỉ tiêu trồng mới từ 250 - 500ha. Sau nhiều năm năm thực hiện chính sách ấy, đến thời điểm này, tổng diện tích cà phê chè Mường Ảng đã lên tới 3.118ha (trong đó, chỉ tính riêng cà phê kinh doanh 1.407ha và diện tích cà phê trồng mới của năm 2012 đạt 535ha).
Đi cùng với việc mở rộng diện tích, năng suất cũng được cải thiện. Từ chỗ chỉ 18-20 tạ/ha những năm trước, bây giờ mỗi ha cà phê chè có thể thu về bình quân 31 tạ cà phê quả. Người Thái trồng cà phê, người Mông ở các huyện lân cận như Tuần Giáo, Điện Biên cũng trồng cà phê. Những bản làng lập nghiệp mới, những nông trường cà phê, những đại gia chân đất xuất hiện ngày một nhiều.
Thành công ấy có lẽ những người Mông ở bản Củ phải được ghi công đầu.