| Hotline: 0983.970.780

Phát triển cây có múi cần tập trung vào công nghệ, quản lý dịch bệnh

Thứ Năm 04/12/2014 , 11:01 (GMT+7)

Cây có múi, đặc biệt là nhiều vùng cam đang giúp nông dân phất lên làm giàu. Khẳng định dư địa phát triển còn rất dồi dào, tuy nhiên, TS Nguyễn Quốc Hùng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả (Bộ NN-PTNT) cho rằng, trước mắt không nên mở rộng diện tích, mà ưu tiên đầu tư công nghệ, quản lý dịch bệnh.

17-38-37_hung
TS Nguyễn Quốc Hùng

 

Dư địa còn lớn

Tính đến năm 2013, diện tích cây có múi cả nước ước khoảng 136 nghìn ha, sản lượng ước đạt 1,4 triệu tấn, riêng diện tích cam khoảng 60 nghìn ha. Các vùng cây có múi rải khắp nhiều vùng trên cả nước.

 Tuy nhiên, quy mô các vùng nhìn chung vẫn còn hạn chế, có thể kể tới vùng Tây Bắc có cam Cao Phong (Hòa Bình), cam sành Bắc Quang (Hà Giang), Hàm Yên (Tuyên Quang), cam sành Văn Chấn (Yên Bái), bưởi Đoan Hùng (Phú Thọ); vùng Đông Bắc có vùng quýt Bắc Sơn, Tràng Định (Lạng Sơn), quýt Bạch Thông (Bắc Kạn), bưởi Diễn (Hà Nội), một số vùng ở Bắc Giang, cam Canh ở Văn Giang (Hưng Yên); miền Trung có cam Quỳ Hợp (Nghệ An), bưởi Phúc Trạch (Hà Tĩnh); miền Nam có bưởi Tân Triều (Đồng Nai), bưởi Năm Roi (Vĩnh Long), cam Tam Bình, quýt Lai Vung (Đồng Tháp), bưởi da xanh Bến Tre…

Đối với cây cam, mới chỉ tiêu thụ nội địa, tuy nhiên hằng năm chúng ta vẫn đang NK lượng lớn của Trung Quốc. Các vùng trồng cam chưa nhiều, cả nước tính sơ qua mới có 3-4 vùng trồng cam tập trung có diện tích đáng kể, so với các loại cây ăn quả khác còn rất bé.

Ngoại trừ một số giống có tính đặc thù khí hậu như cam Xã Đoài, các giống cam dòng Navel…, còn lại nhìn chung tính thích nghi của cây có múi khá rộng. Bưởi da xanh trước đây vốn chỉ trồng ở phía Nam hiện đã đưa ra trồng ở Cao Phong, Bắc Giang đạt năng suất, chất lượng khá tốt. Vì vậy, có thể nói dư địa phát triển cây cam nói riêng và cây có múi nói chung vẫn còn vô cùng lớn.

17-38-37_cmjpg
Cây có múi đòi hỏi kỹ thuật SX rất cao, đặc biệt là sâu bệnh

Một số địa phương có điều kiện hoàn toàn có thể đưa cây có múi như cam, bưởi, quýt… vào cơ cấu cây trồng, điển hình như các huyện Hiệp Hòa, Lục Nam, Lục Ngạn (Bắc Giang) bởi điều kiện thổ nhưỡng rất thích hợp.

Lợi thế của cây cam là thời gian thu hoạch có thể kéo rất dài, khác với vải thiều chỉ thu hoạch tập trung, khả năng bảo quản, vận chuyển cam cũng thuận lợi hơn vải thiều rất nhiều. Vì vậy, Bắc Giang hoàn toàn có thể chuyển một số diện tích vải thiều kém hiệu quả sang cây có múi, trong đó có cam.

Trước đây, Bắc Giang đã từng có vùng cam Bố Hạ (Yên Thế) rất nổi tiếng nhưng bây giờ không còn nữa.

Ngoài ra, vùng Nghĩa Đàn - Quỳ Hợp (Nghệ An) hiện tiềm năng mở rộng diện tích cam vẫn còn lớn. Các huyện miền tây Thanh Hóa như Như Thanh, Như Xuân… có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng rất phù hợp với cây cam. Trước đây Nông trường Thống Nhất (Yên Định - Thanh Hóa) cũng đã từng trồng cam nhưng nay vùng này đã chuyển sang trồng mía và cao su, hiệu quả chưa như mong đợi.

Tây Nguyên cũng là địa bàn chưa có mặt cây có múi, và hoàn toàn có thể trồng được. Một số địa phương như Bắc Kạn, Lai Châu có thể trồng cam ở một số tiểu vùng nhỏ, có thể đáp ứng nhu cầu tiêu thụ tại chỗ.

Đối với các tỉnh đồng bằng, nếu có quy hoạch tốt để giải quyết vấn đề thoát nước, hoàn toàn có thể phát triển được cây có múi. Vùng bưởi Diễn (Hà Nội) nhiều năm gần đây liên tục mất mùa bởi nhiều diện tích trồng xen kẹt với đất lúa nên bị úng. Vì vậy trước mắt, nếu không có quy hoạch bài bản thì chỉ nên đặt vấn đề phát triển cây có múi ở các vùng đất đồi, miền núi.

Chưa nên mở rộng

Mặc dù dư địa phát triển còn lớn, tuy nhiên, theo tôi, chưa nên mở rộng diện tích cây có múi, mà chỉ nên tập trung thâm canh, cải tạo tăng năng suất, tăng giá trị kinh tế đối với các diện tích đã có.

Điểm dễ nhìn thấy giữa các vùng trồng cam hiện nay là không đồng đều, có sự chênh lệch về thu nhập rất lớn, chứ không phải vùng nào cũng tốt như Cao Phong hay Quỳ Hợp. 

Nếu như Quỳ Hợp, Cao Phong và các vùng ở ĐSBCL hiện nay có trình độ thâm canh rất cao, năng suất cam đạt tới 40-50 tấn/ha, thu nhập người trồng cam hàng tỉ đồng mỗi năm thì một số vùng khác, điển hình như vùng cam sành Hà Giang hiện năng suất cam chỉ đạt trung bình 12 tấn/ha, nhiều diện tích thậm chí chỉ có 7-8 tấn/ha, đời sống người trồng cam chưa khá giả.

Công nghệ sau thu hoạch cũng là vấn đề ở tất cả các vùng trồng cam hiện nay. Vùng cam Cao Phong mới đây mới biết đóng thùng trước khi vận chuyển đi tiêu thụ, nhưng kích cỡ thùng quá lớn, còn lại các vùng khác vẫn còn vận chuyển bằng sọt tre, bao tải…

 Vùng bưởi Phúc Trạch (Hà Tĩnh), Đoan Hùng (Phú Thọ) nếu thời gian qua không nỗ lực nghiên cứu khôi phục thì chắc đến nay đã bị xóa sổ. Vùng cam Bắc Quang (Hà Giang) trước đây có diện tích khoảng 1.500 ha, năng suất rất tốt nhưng bây giờ đang có nguy cơ giảm diện tích, năng suất ngày càng tụt mạnh, mà nguyên nhân chủ yếu do trình độ canh tác, đầu tư của nông dân rất hạn chế.

Nếu như người trồng cam đường Canh ở Văn Giang (Hưng Yên) hiện nay biết ủ cả ốc, cá, đậu tương để thay thế phân hóa học, người trồng cam ở Cao Phong hay Quỳ Hợp có khả năng đầu tư, có kỹ thuật canh tác, phòng trừ sâu bệnh rất hoàn hảo, thì hầu hết vùng cam Hà Giang người dân gần như bỏ bê, trồng dày chi chít, không bón phân chuồng, không tỉa cành tạo tán, không tưới mà chỉ nhờ nước trời…

Điều này cho thấy không phải nơi nào cũng làm giàu được từ cây có múi.

Một số giống cam hiện nay có tính đặc thù thổ nhưỡng, khí hậu rất cao, không phải nơi nào cũng trồng được. Ví dụ cam Xã Đoài có thể trồng cho năng suất rất cao ở Cao Phong, Quỳ Hợp, nhưng đưa lên Hà Giang, do lượng mưa rất lớn nên lại không trồng được, mà chỉ trồng được cam sành, dù biết giá cam sành không thể cao bằng cam Xã Đoài.

Việc quản lí và phòng trừ một số sâu bệnh đơn giản như vàng lá vi khuẩn, rệp, nhện, đốm đen… ở một số vùng cam có trình độ kỹ thuật cao như Hưng Yên, Cao Phong, Quỳ Hợp… hiện đã cơ bản tốt, tuy nhiên sâu bệnh vẫn đang là vấn đề lớn của cây có múi, đặc biệt là bệnh greening và sâu đục quả.

Bệnh greening vẫn chưa có thuốc điều trị, nếu không có kỹ thuật quản lí tốt môi giới truyền bệnh thì sẽ rất nguy hiểm. Vựa cam sành Bố Hạ (Bắc Giang) trước đây có tiếng, nhưng đến nay đã bị xóa sổ chủ yếu do sâu bệnh.

 Một số cây có múi có đặc điểm sinh học khá đặc biệt, điển hình như vùng bưởi Phúc Trạch và Đoan Hùng vừa qua có nguy cơ bị xóa sổ do tỉ lệ đậu quả ngày càng giảm, năng suất rất thấp. Sau một thời gian dài nghiên cứu, Viện Nghiên cứu Rau quả đã phát hiện ra nguyên nhân của tình trạng này là hiện tượng “tự bất tương hợp”, nghĩa là nếu để bưởi tự thụ phấn đến giai đoạn thuần hóa vườn bưởi thì tỉ lệ đậu quả sẽ ngày càng thấp.

Sau này, nhờ trồng xen các giống bưởi khác giống và thụ phấn chéo, tỉ lệ đậu quả đã tăng lên rõ rệt, vì vậy diện tích bưởi Phúc Trạch và Đoan Hùng đã khôi phục dần.

Về giống, bộ giống cam còn khá đơn điệu, mới chỉ có 3-4 giống mới. Viện Nghiên cứu Rau quả hiện có Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển cây có múi, mỗi năm cung cấp khoảng 2 triệu cây giống sạch bệnh cho các vùng, tuy nhiên vẫn còn tình trạng chất lượng giống chưa đạt chất lượng, nhiễm bệnh lưu hành trên thị trường.

Trước đây, chương trình giống cây trồng của Bộ NN-PTNT từng xây dựng một số cơ sở SX giống cây có múi sạch bệnh gồm vườn ươm tại Nghĩa Đàn (Nghệ An) và một cơ sở SX giống ở Bắc Quang (Hà Giang). Tuy nhiên hiện tại, vườn ươm tại Nghĩa Đàn đã giải tán do bị thu hồi đất cho Cty sữa TH True milk, còn vườn ươm tại Hà Giang mặc dù đã xây dựng xong hạ tầng nhưng sau đó do không được đầu tư đúng mức nên hoạt động không hiệu quả, hiện đã giao cho Cty giống cây trồng Hà Giang quản lí. Đầu tư cho nghiên cứu SX giống cây có múi khá phức tạp và tốn kém, hiện chưa đáp ứng được yêu cầu. (TS Nguyễn Quốc Hùng)

 

LÊ BỀN (ghi)

Xem thêm
Một con bò có thể tạo ra 2 tỷ điểm dữ liệu trong suốt cuộc đời

Theo các chuyên gia ngành chăn nuôi Mỹ, ứng dụng công nghệ gen đóng vai trò quan trọng trong nhân giống bò sữa, giúp tối đa hóa tiến bộ di truyền.

Truy tố những trường hợp để chó, mèo gây hậu quả nghiêm trọng

Đắk Lắk sẽ điều tra, truy tố, xử lý nghiêm những trường hợp không tuân thủ quy định trong việc nuôi, quản lý chó, mèo để xảy ra hậu quả nghiêm trọng.

Đốt rơm rạ là... đốt tiền

ĐỒNG THÁP Chưa khi nào nông dân thấy giá trị của rơm rạ như bây giờ, thu hoạch xong không đốt bỏ mà bán cho hợp tác xã, xử lý thành các sản phẩm đa dụng...

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm