| Hotline: 0983.970.780

Thái Nguyên quản lý hiệu quả các công trình nước sạch

Thứ Tư 21/11/2012 , 10:05 (GMT+7)

Sau 20 năm triển khai thực hiện Chương trình NSH - VSMTNT, tỉnh Thái Nguyên đã đạt được những thành tựu quan trọng.

Niềm vui khi có nước sạch

Sau 20 năm triển khai thực hiện Chương trình NSH - VSMTNT, tỉnh Thái Nguyên đã đạt được những thành tựu quan trọng. Nguyên nhân của kết quả trên được đánh giá là do công tác quản lý hiệu quả các công trình cấp nước sau đầu tư.

Từ các nguồn vốn của ngân sách Nhà nước và viện trợ của các tổ chức quốc tế (227 tỉ đồng) và nhân dân đóng góp (305 tỉ đồng), trong những năm qua, Chương trình MTQG NS - VSMTNT tại Thái Nguyên đã đầu tư xây dựng được 144 công trình cấp NSH tập trung, trong đó có 19 công trình do Trạm Dịch vụ xây dựng công trình NSH - VSMTNT quản lý, vận hành khai thác, được áp dụng công nghệ bảo đảm chất lượng nước theo quy chuẩn kỹ thuật do Bộ Y tế quy định; xây dựng 26 công trình mỏ nước tự chảy; 115 bể, lu chứa nước mưa; gần 13.000 giếng nước hộ gia đình…

Theo tiêu chí mới quy định tại Quyết định số 51/2008/QĐ-BNN ngày 14/4/2008 của Bộ NN-PTNT, đến hết năm 2011, dân số nông thôn toàn tỉnh Thái Nguyên được sử dụng NSH hợp vệ sinh đạt 75%, tăng 47% so với năm 1991, trong đó 55% đạt quy chuẩn kỹ thuật chất lượng NSH do Bộ Y tế quy định. Đặc biệt, đã có 95% tổng số trường học, 97% tổng số bệnh xá xã, 95% UBND xã, 40% chợ nông thôn và khoảng 20% làng nghề có nước sạch và công trình vệ sinh.

Ông Đặng Huy Thành, Giám đốc Trung tâm NSH - VSMTNT Thái Nguyên, cho biết, song hành với nhiệm vụ xây dựng, công tác quản lý và phát huy hiệu quả các công trình cấp nước hiệu quả chính là khâu then chốt để có được những kết quả nổi bật trên. Trung tâm đã chú trọng đến công tác thông tin, giáo dục truyền thông nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi vệ sinh đối với cộng đồng dân cư.

Tỉnh Thái Nguyên triển khai Chương trình MTQG NS - VSMTNT giai đoạn 2011-2015 với tổng nguồn kinh phí thực hiện 300 tỉ đồng. Trong đó, nguồn ngân sách Trung ương và tài trợ quốc tế là 120 tỉ đồng, vốn ngân sách tỉnh 60 tỉ đồng, vốn tín dụng 90 tỉ đồng và nhân dân đóng góp 30 tỉ đồng. Riêng đối với việc cấp NSH nông thôn, tỉnh Thái Nguyên quyết định đầu tư 225 tỉ đồng xây dựng các công trình cấp nước.

Đồng thời, các cấp chính quyền cơ sở luôn quan tâm đẩy mạnh với sự phối hợp giữa các hội, ngành, đoàn thể để tổ chức các lớp tập huấn về kỹ năng truyền thông cho các tuyên truyền viên cơ sở khi chuẩn bị tiếp nhận dự án đầu tư xây dựng công trình; tập huấn kỹ thuật quản lý, vận hành, khai thác công trình cấp nước tập trung cho các ban quản lý; tuyên truyền hướng dẫn thực hiện bộ chỉ số theo dõi, đánh giá chất lượng nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn…

Ông Dương Văn Toản, Trạm trưởng Trạm dịch vụ xây dựng công trình nước và VSMTNT- đơn vị trực thuộc Trung tâm NSH - VSMTNT tỉnh Thái Nguyên, cho biết, công tác quản lý vận hành khai thác và dịch vụ nước sạch đối với các công trình dần ổn định và đi vào nề nếp. Chất lượng nước được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ theo quy định, bảo đảm đạt tiêu chuẩn của Bộ Y tế.

Đặc biệt chất lượng dịch vụ từng bước được nâng cao đáp ứng nhu cầu sử dụng NSH của người dân trên cơ sở thực hiện đúng các quy định của Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ cung cấp NSH nên đã phát huy được hiệu quả. Trong quá trình quản lý vận hành đã bảo đảm an toàn về lao động, tài sản, trang thiết bị, sửa chữa, khắc phục kịp thời những hư hỏng.

Xem thêm
424 hộ nghèo tỉnh Ninh Bình được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở

Năm 2024, tỉnh Ninh Bình sẽ hỗ trợ hơn 37 tỷ đồng xây dựng, sửa chữa nhà ở cho 424 hộ nghèo, khó khăn trên địa bàn.

Hưng Yên: Nhiều giải pháp đảm bảo vệ sinh môi trường nông thôn

Những giải pháp dưới đây vừa giúp giảm căn bản ô nhiễm môi trường, vừa tạo ra lượng lớn phân hữu cơ chất lượng tốt chăm bón cho cây trồng.

Bến Tre bán sản phẩm OCOP trên Youtube, Tiktok

Hội Nông dân Bến Tre vừa có chương trình ghi nhớ hợp tác để thúc đẩy thương mại số sản phẩm OCOP.

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm