Khi 5 đứa con đã trưởng thành thì bà Nguyễn Thu Đông, Triệu Phong, Quảng Trị bị ung thư vú, ở tuổi gần 60. Mặc dù đã được Bệnh viện Trung ương Huế phẫu thuật bên vú bị ung thư và điều trị xong nhưng nỗi ám ảnh di căn vẫn đeo bám tâm tưởng khiến bà chẳng lúc nào yên. Máy đồng vị phóng xạ
Các con cũng thương mẹ vất vả cả đời, tưởng tuổi già yên vui cùng con cháu lại phải sống trong lo âu bệnh tật nên đưa bà vào TP.HCM để tìm thầy thuốc giỏi mong điều trị tận gốc.
Tương tự, chị Trần Lệ Hằng, 33 tuổi, nhà ở quận 8, TP.HCM đã phát hiện sớm ung thư vú trong lần khám sức khỏe định kỳ. Bác sĩ cho biết: Nhờ phát hiện sớm nên mặc dù phải phẫu thuật nhưng vẫn bảo tồn được tuyến vú. Tuy nhiên, nỗi ám ảnh di căn luôn đeo bám những phụ nữ đã được điều trị ung thư vú, tối thiểu từ 5-7 năm sau khi được điều trị. Và khi dấu hiệu di căn xuất hiện, sự suy sụp về tinh thần vô cùng lớn bởi hầu như ai cũng nghĩ cái chết đang cận kề.
GS Nguyễn Chấn Hùng chia sẻ: Đã có những tiến bộ đáng kể khoảng 30 năm nay về sự hiểu biết của căn bệnh ung thư vú. Từ sinh học ung thư vú, các yếu tố nguy cơ và yếu tố tiên lượng đã được hiểu rõ hơn. Khả năng xử lý ung thư vú cũng được cải thiện đáng kể. Nếu như 30 năm trước ngay bản thân tôi khi làm phẫu thuật cho bệnh nhân ung thư vú cũng “hùng hục cắt” tất cả những gì liên quan đến vú theo phương pháp được gọi là “đoạn nhũ tận gốc”. Tuy nhiên, trên thực tế, đến 80% trường hợp chưa cần phải nạo hạch nách.
Ung thư vú được phát hiện sớm, kích thước khối u khoảng 2-3 cm có thể điều trị bằng cách cắt bỏ khối u bằng phương pháp “cắt rộng bướu”, một phương pháp phẫu thuật cho phép loại bỏ khối u nhưng vẫn bảo tồn được tuyến vú. Thông thường, nếu điều trị bảo tồn thì bệnh nhân phải được cắt bỏ khối u đồng thời nạo hạch nách. Với sự hiểu biết sâu hơn về căn bệnh này, đã hình thành các phương pháp phẫu thuật ít tàn phá hơn, bảo tồn cơ ngực cho người bệnh, vừa tránh cho bệnh nhân mặc cảm thẩm mỹ sau khi phẫu thuật vừa bảo vệ sức khỏe người bệnh.
Trong di căn của ung thư vú vào hạch nách, hạch canh gác (còn gọi là hạch cảnh vệ) là hạch bị ảnh hưởng đầu tiên. Hiện nay, để phát hiện sớm bệnh ung thư vú, ngoài các biện pháp siêu âm, X-quang, CT còn có máy đồng vị phóng xạ để chẩn đoán ung thư vú đã di căn hạch hay chưa, nhằm giảm thiểu số lượng bệnh nhân ung thư vú phải phẫu thuật nạo hạch nách không cần thiết.
Máy đồng vị phóng xạ sẽ hỗ trợ bác sĩ tìm chính xác hạch canh gác để sinh thiết hạch này tìm di căn. Thủ thuật này được thực hiện trong phòng mổ. Khi đã tìm thấy hạch canh gác, bác sĩ sẽ tiến hành sinh thiết lạnh tại chỗ. Nếu kết quả sinh thiết lạnh âm tính, tức là chưa có di căn vào hạch nách thì bệnh nhân chỉ cần cắt bỏ khối u, không cần phải nạo hạch nách. Nếu kết quả sinh thiết lạnh dương tính, bác sĩ sẽ chuyển mẫu cho bác sĩ khoa xét nghiệm làm xét nghiệm mô học một lần nữa để xác định kết quả trước khi có kế hoạch điều trị tiếp theo cho bệnh nhân.
Theo BS Trần Nguyên Hà, trưởng khoa nội 4 của BV Ung Bướu TP.HCM, phát hiện sớm ung thư vú giúp việc điều trị giảm được nhiều nguy cơ như 33% giảm nguy cơ tử vong, 30% giảm nguy cơ tái phát. Nhờ đó, tránh được các biến chứng có thể xảy ra do nạo hạch như: nhiễm trùng cẳng tay, ứ trệ tuần hoàn, phù nề.
Chính vì vậy, việc tầm soát phát hiện ung thư vú sớm là một trong các yếu tố quan trọng giúp điều trị ung thu vú đạt hiệu quả cao.