| Hotline: 0983.970.780

Vượt ải gieo neo

Thứ Ba 27/03/2012 , 10:12 (GMT+7)

Thực tế triển khai xây dựng NTM cho thấy, trong 19 số tiêu chí, thì tiêu chí chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao thu nhập cho người dân là “cửa ải” khó nhất.

Chuyển dịch cơ cấu lao động là cửa ải gieo neo nhất

Thực tế triển khai xây dựng NTM cho thấy, trong 19 số tiêu chí, thì tiêu chí chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao thu nhập cho người dân là “cửa ải” khó nhất. Cũng vì thế, khi “Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn (LĐNT) đến năm 2020” (Đề án 1956) được triển khai, các địa phương đều đón nhận rất nhiệt tình. Đây được coi là nguồn lực quan trọng “tiếp sức” xây dựng NTM.

Thành công từ Thụy Hương

Trở lại xã Thụy Hương, huyện Chương Mỹ (Hà Nội), sau một thời gian địa phương đồng loạt tổ chức các lớp dạy nghề cho LĐNT theo Đề án 1956 của Chính phủ, nghề đã phát huy giúp người dân ổn định cuộc sống và làm giàu. Anh Nguyễn Văn Bình (thôn Phúc Cầu) cho hay, năm 2011 sau khi tốt nghiệp PTTH, anh đăng ký tham gia lớp học nghề mộc dân dụng tổ chức ngay tại địa phương. Sau 3 tháng học, cầm chứng chỉ nghề trong tay, anh xin vào làm trong một xưởng mộc tại thôn. Có việc làm ổn định, mỗi tháng Bình được nhận lương 6 triệu đồng. Đây là số tiền không nhỏ đối với LĐNT.

Theo Chủ tịch UBND xã Thụy Hương Nguyễn Đức Học, từ khi được chọn làm điểm xây dựng NTM (năm 2009), địa phương đã nhận được sự hỗ trợ của nhiều ngành chức năng như: Tổng cục Dạy nghề, các Trung tâm Khuyến nông, Trung tâm Giống… đưa nhiều chương trình dạy nghề, hướng nghiệp đến với LĐNT. Riêng đối với các lớp nghề theo Đề án 1956, từ năm 2009 đến nay, xã Thụy Hương đã mở được 15 lớp với các nghề nông nghiệp và phi nông nghiệp như: Móc sợi, mộc dân dụng, điêu khắc, trồng hoa cây cảnh, lúa chất lượng cao, rau an toàn và cây ăn quả…

Công tác dạy nghề có khảo sát, gắn với thực tế của người lao động và quy hoạch phát triển KTXH của địa phương. Cụ thể, Thụy Hương có nghề mộc truyền thống, nhu cầu được học và nâng cao tay nghề của người dân là rất lớn nên xã đã mở các lớp nghề mộc. Triển khai xây dựng NTM, địa phương đã quy hoạch các vùng trồng rau an toàn, hoa cây cảnh nên cũng rất cần dạy nông dân những kiến thức trong trồng, chăm sóc để nông dân có kỹ năng làm việc, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao thu nhập trên một đơn vị diện tích canh tác.

Thực tế sau hơn 2 năm cấp tập đào tạo nghề cho LĐNT, đã đáp ứng được khoảng 80% nhu cầu học nghề của nông dân trong xã và mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Tại thôn Trung Tiến, trước khi mở lớp dạy nghề móc sợi, thôn chỉ có 25 hộ làm nghề, đến nay số hộ làm móc sợi đã nhân ra hàng trăm hộ; đối với nghề mộc, tập trung ở các thôn Phúc Cầu, Tân Mỹ, Trung Tiến… trước khi được đào tạo nghề bài bản, thu nhập bình quân của thợ mộc chỉ từ 2-3 triệu đồng/tháng nay đã tăng lên 6-8 triệu đồng/tháng.

Dạy nghề gắn với thực tế cơ sở

Mục tiêu TP Hà Nội đạt ra, đến năm 2015, nâng tỷ lệ LĐNT được đào tạo lên 45% và đến năm 2020 là 70%, bình quân hàng năm đào tạo nghề cho 62.000 LĐNT. Trong đó, giai đoạn 2011-2015 đào tạo cho 310.000 lao động, bao gồm 79.000 người qua các trường lớp cao đẳng, trung cấp nghề, 57.000 người qua sơ cấp và loại hình đào tạo dưới 3 tháng là 174.000 người; giai đoạn 2016-2020 đào tạo nghề cho 310.000 lao động, riêng lao động qua các trường cao đẳng, trung cấp nghề được nâng lên 80.000 người, sơ cấp nghề 80.000 người và đào tạo dưới 3 tháng là 150.000 người.

Tuy nhiên, không phải địa phương nào cũng thành công với công tác dạy nghề cho LĐNT. Tại xã Yên Sơn, huyện Quốc Oai, Chủ tịch UBND xã Nguyễn Phú Thành cho hay, xã có 1.800 hộ dân thì có tới 700 hộ bị ảnh hưởng bởi thu hồi đất phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Nông dân thiếu việc làm nhưng việc dạy nghề cho LĐNT ở đây lại không được mấy người mặn mà. Bằng chứng là các lớp dạy nghề dù thông báo rộng rãi nhưng vận động mãi vẫn không có người học. Một số lớp đã mở được như may công nghiệp, mây tre đan… nhưng số người trụ lại với nghề sau học không nhiều. Nguyên nhân do thu nhập từ nghề phụ thấp so với các công việc khác, nhiều nghề nhân cây không phù hợp với địa phương như không tiện nguồn nguyên liệu, không có đầu ra cho sản phẩm, giá cả không ổn định…

Thống kê trên địa bàn TP Hà Nội cho thấy, số lượng lao động ngoại thành chưa qua đào tạo nghề rất cao, khoảng 84,06% chủ yếu tập trung ở độ tuổi từ 18-43. Trong đó, việc phân bố lao động qua đào tạo không đồng đều và có sự chênh lệch khá lớn giữa các vùng nông thôn. Có huyện tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo lên trên 90% như: Mỹ Đức, Ứng Hòa, Phú Xuyên, Ba Vì, Chương Mỹ... Điều này dẫn đến tình trạng nhiều vùng nông thôn dôi dư lao động nhưng thiếu đội ngũ thợ lành nghề. Phần lớn, LĐNT Hà Nội hiện nay làm việc trong tình trạng “đói kiến thức”, kỹ năng sản xuất của họ thông qua kinh nghiệm là chính.

Để chương trình đào tạo nghề cho LĐNT đạt mục tiêu đề ra và mang lại lợi ích thiết thực cho nông dân, tránh lãng phí, công tác dạy nghề cần phải tổ chức theo nhu cầu thực tế của từng địa phương; gắn với trách nhiệm của địa phương, doanh nghiệp; đào tạo phải theo hướng nông dân cần gì thì đào tạo cái đó. Làm tốt công tác này là con đường có hiệu quả nhất, ứng dụng khoa học, công nghệ vào nông nghiệp, nông thôn trong quá trình xây dựng NTM của Hà Nội.

Xem thêm
424 hộ nghèo tỉnh Ninh Bình được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở

Năm 2024, tỉnh Ninh Bình sẽ hỗ trợ hơn 37 tỷ đồng xây dựng, sửa chữa nhà ở cho 424 hộ nghèo, khó khăn trên địa bàn.

Hưng Yên: Nhiều giải pháp đảm bảo vệ sinh môi trường nông thôn

Những giải pháp dưới đây vừa giúp giảm căn bản ô nhiễm môi trường, vừa tạo ra lượng lớn phân hữu cơ chất lượng tốt chăm bón cho cây trồng.

Bến Tre bán sản phẩm OCOP trên Youtube, Tiktok

Hội Nông dân Bến Tre vừa có chương trình ghi nhớ hợp tác để thúc đẩy thương mại số sản phẩm OCOP.

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm