| Hotline: 0983.970.780

Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ

Thứ Bảy 09/09/2017 , 08:45 (GMT+7)

Chỉ với bài “Quê hương”, Giang Nam đã trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Đó là một sự may mắn không phải ai cũng có được trong nghề cầm bút. 

Tuy nhiên, với Giang Nam, giấc mộng thi sĩ giống như một sự sắp đặt ngẫu nhiên của số phận. Nhà thơ Giang Nam sáng tác để có thêm vũ khí cho mình trên hành trình dấn thân “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” một cách chân thành: “Tôi thấm thía một điều, cuộc chiến đấu vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước là ngọn nguồn cảm xúc, là niềm vui và nỗi đau trong thơ tôi”.

08-59-10_trng_7
Nhà thơ Giang Nam

Năm 16 tuổi, chàng trai Nguyễn Sung đã tham gia quật khởi cùng Cách mạng tháng 8-1945 tại quê nhà Ninh Hòa - Khánh Hòa. Sự chọn lựa ấy đã trở thành một bước ngoặt quan trọng trong đời ông. Đi với kháng chiến, Nguyễn Sung làm công tác xây dựng cơ sở, rồi theo bộ đội đánh giặc, rồi làm tuyên huấn… Thực tế khói lửa, thực tế sinh tử đã giúp ông làm thơ, như ông thổ lộ: “Trở thành nhà thơ lúc nào không biết, chủ yếu là không thể dằn lòng trước nỗi đau của bà con và nỗi đau của riêng mình”.

Bài thơ “Quê hương” đánh dấu sự nghiệp thi ca của Nguyễn Sung với bút danh Giang Nam, ra đời năm 1960 ở căn cứ Hòn Du nằm phía tây thành phố Nha Trang. Bài thơ “Quê hương” đậm chất tự sự, như được ghi chép rất thật thà về tâm trạng của tác giả khi nghe tin người vợ của mình bị giặc bắt và đã hy sinh ở miền Nam. Cả bài thơ “Quê hương” gồm 35 câu, kể lại một câu chuyện dằng dặc nhớ thương giữa hai con người có chung nhiều kỷ niệm và có chung một lý tưởng.

Không khí yên ả và tâm tư trong sáng làm nền cho cả bức tranh “Quê hương”, từ nét đẹp hồn nhiên “Tuổi còn thơ ngày hai buổi đến trường/ Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ/ Ai bảo chăn trâu là khổ/ Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao/ Những ngày trốn học/ Đuổi bướm cầu ao/ Mẹ bắt được/ Chưa đánh roi nào đã khóc/ Có cô bé nhà bên/ Nhìn tôi cười khúc khích”, rồi đến rung động thánh thiện “Cô bé nhà bên (có ai ngờ)/ Cũng vào du kích/ Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích/ Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)/ Giữa cuộc hành quân không nói được một lời/ Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại/ Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi...” và đến hẹn thề thanh cao “Hoà bình tôi trở về đây/ Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày/ Lại gặp em/ Thẹn thùng nép sau cánh cửa.../ Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ/ Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)/ Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi/ Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...”. Ba mảng màu tươi tắn được khắc hoạ bởi tiếng cười khúc khích. Ba đoạn thơ chỉ mang tính thông tin, nhưng nhờ tiếng cười khúc khích mà lan toả thành ba ấn tượng đặc biệt!

Tuy nhiên, ba chuỗi cười khúc khích không thể tạo ra bài thơ “Quê hương”, nếu không có giông tố đột ngột: “Hôm nay nhận được tin em/ Không tin được dù đó là sự thật/ Giặc bắn em rồi quăng mất xác/ Chỉ vì em là du kích em ơi/ Đau xé lòng anh chết nửa con người”. Sự mất mát ấy gây bàng hoàng cho người đọc, và trở thành điểm nhấn để kỷ niệm bay lên, lý tưởng bay lên, câu chữ bay lên, thả lơ lửng một bài thơ “Quê hương” vào bầu trời thi ca Việt Nam giai đoạn chống Mỹ cứu nước!...

Câu chuyện bẽ bàng của đôi trai gái mà bài thơ “Quê hương” đề cập, không phải trường hợp độc nhất vô nhị trong giai đoạn văn học chiến tranh Việt Nam. Mô-típ ấy, nhà thơ Hữu Loan đã viết bài thơ “Màu tím hoa sim” vào năm 1949 với u uất “nhưng không chết/ người trai khói lửa/ mà chết/ người gái nhỏ hậu phương”, và nhà thơ Vũ Cao đã viết bài thơ “Núi Đôi” vào năm 1955 với xao xác “Mới tới đầu ao, tin sét đánh/ Giặc giết em rồi, dưới gốc thông/ Giữa đêm bộ đội vây đồn Thửa/ Em sống trung thành, chết thuỷ chung!”. Bài thơ “Quê hương” gần gũi với bài thơ “Núi Đôi” hơn bài thơ “Màu tím hoa sim”, nhưng mỗi bài thơ đều có sắc thái riêng và có chỗ đứng riêng!

Dù tác phẩm lừng lẫy “Quê hương” được viết ở vùng đất Diên Khánh, nhưng quãng đời hoạt động cách mạng và văn học sôi nổi nhất của Giang Nam lại diễn ra ở chiến trường Nam bộ. Từ năm 1963 đến năm 1975, nhà thơ Giang Nam gắn bó với Trung ương Cục miền Nam và công tác ở Hội Văn nghệ Giải phóng. Trực tiếp tham gia cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968, nhà thơ Giang Nam được chứng kiến một thời khắc lịch sử bi hùng khó quên của dân tộc. Ký ức ngổn ngang và chất chồng được ông lần giở tỉ mỉ và trân trọng trong trường ca “Ánh chớp đêm giao thừa” xuất bản vào năm 1998, với những câu thơ như cuộn trào, như nhắc nhớ.

08-59-10_trng_8
Ảnh minh họa

Từ những hồi hộp trước đợt xuất kích: “Chúng tôi chờ tin/ Từ những sư đoàn chủ lực đang hành quân/ Chúng tôi chờ tin/ Từ những dòng sông âm thầm dân công ra phía trước/ Họ đi về phía các anh/ Về phía mùa xuân/ Về phía Sài Gòn/ Thành phố đau thương nhưng không bao giờ khuất phục” đến những giây phút cảm thông lặng lẽ “Anh yêu em như nước sông luôn chảy một dòng/ Biết xa nhau để có ngày gần lại/ Cầm bàn tay, ôi những ngón búp măng thời con gái/ Anh đã làm gì cho bớt những vết chai?” và những hy vọng bập bùng như lửa cháy “Ngày mai, em ơi ngày mai/ Sẽ trả về cho chúng ta cuộc đời thường hằng mơ ước/ Sẽ nổ trên đầu thù ngàn khối thuốc/ Từ căn phố này bé nhỏ không tên/ Và từ hàng me hò hẹn của chúng mình…”.

Với nhà thơ Giang Nam, cuộc đời thi ca song hành cuộc đời cách mạng. Không chỉ có bài thơ “Quê hương” và trường ca “Ánh chớp đêm giao thừa” chứng minh điều đó, mà chính nhà thơ Giang Nam còn trực tiếp khẳng định trong bài thơ “Nghe em vào đại học” về mạch nguồn bổ ích để sống và viết của bản thân: “Anh sẽ để riêng một đêm thức suốt/ Kể em nghe chuyện chiến đấu miền Nam/ Câu chuyện mở đầu: “Thuở ấy, ở quê hương/ Anh chỉ học có một trường: Cách mạng”...

Nhà thơ Giang Nam từng bộc bạch: “Tuyệt đại đa số bài viết là để cho mình đọc, để tự dặn với lòng mình hãy thủy chung với đất nước, với người mình thương”. Lời lẽ như vậy không quá nhún nhường mà cũng không giả vờ khiêm tốn, ông chưa bao giờ có ý định phô diễn chữ nghĩa hòng được thiên hạ xưng tụng bất kỳ điều gì, nhưng cuộc đời cứ va đập, cứ tương tác, cứ dan díu, cứ bận bịu để ông thành nhà thơ. Người bạn đời đôn hậu Phạm Thị Chiều, người con gái có tiếng cười khúc khích làm nên hồn vía bài thơ “Quê hương”, vẫn thường xuyên xuất hiện trong những trang thơ âm thầm của nhà thơ Giang Nam, từ những ngày bom đạn khốc liệt “Anh gục đầu trên dòng chữ nhỏ/ Mà lòng thổn thức suốt canh thâu/ Tưởng thấy bóng em sau cánh liếp/ Đêm đêm nghe gió rít qua đầu” đến những ngày thanh bình chộn rộn “Chiều mưa Sài Gòn, gió giật những cành me/ Nghe bão miền Trung thương em một mình bối rối/ Bao cơn bão đi qua cuộc đời con gái/ Vẫn mình em chống chọi, vẫn mình em”.

(Kiến thức gia đình số 35)

Xem thêm
Quy Nhơn đăng cai giải đua mô tô nước thế giới

Từ ngày 22-24/3, tại thành phố Quy Nhơn (Bình Định) sẽ diễn ra Giải đua mô tô nước thế giới UIM-ABP Aquabike World Championship với sự tham gia của hơn 60 vận động viên…

Tuyển Thái Lan gây địa chấn với trận hoà tuyển Hàn Quốc

Tuyển Thái Lan gây địa chấn với trận hoà tuyển Hàn Quốc với tỷ số 1-1 ở lượt trận thứ 3 vòng bảng tại vòng loại World Cup 2026.

HLV Philippe Troussier rời đội tuyển Việt Nam

Ông Philippe Troussier rời đội tuyển Việt Nam và chính thức không còn nắm giữ vị trí HLV trưởng của đội bóng sau trận thua muối mặt trước tuyển Indonesia.

Cây phong lá đỏ 115 tuổi hút du khách ở Sa Pa

LÀO CAI Cây phong lá đỏ ở Sa Pa thu hút nườm nượp du khách đến chiêm ngưỡng, chụp ảnh.

Bình luận mới nhất