PGS.TS Hoàng Văn Tiệu-Viện trưởng Viện Chăn nuôi
Liên quan đến vấn đề đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học của ngành chăn nuôi cũng như hiện tượng "chảy máu chất xám" trong khoa học, PGS.TS Hoàng Văn Tiệu đã có những tâm tư với NNVN...
Thưa ông, hiện nay ở Viện có tình trạng không tiêu hết tiền cho nghiên cứu khoa học không?
Mỗi năm trung bình chúng tôi nhận được tổng cộng cỡ 16 tỉ đồng cho công tác nghiên cứu. Không hề có tình trạng thừa mà tại Viện, các đề tài vẫn phải xếp hàng chờ tiền. Nói rộng ra, chúng ta vẫn chưa trích đủ tiền cho công tác nghiên cứu khoa học theo đúng tiêu chí là đầu tư cho khoa học chiếm 2% GDP vì trong tình trạng ngân sách còn chưa dồi dào, người ta thường ưu tiên cho những khoản chi cấp bách hơn, thiết thực hơn là khoa học.
Tại sao hiện có tình trạng các nhà khoa học chưa mặn mà với công tác nghiên cứu?
Có rất nhiều nguyên nhân. Thứ nhất là bởi cơ chế tiêu tiền cho khoa học chưa phù hợp. Giá vật tư tăng cao thất thường nhưng duyệt đề cương, nội dung nghiên cứu cũng như các chi phí khác phục vụ đề tài trước 3 tới 5 năm mà không có cơ chế bù trượt giá. Vì thế theo tôi chỉ cần duyệt phần khối lượng, vật tư chứ không nên duyệt một mức giá cố định. Thứ hai là công tác bảo hộ bản quyền của chúng ta chưa tốt. Thứ ba là đối tượng phục vụ của các nhà khoa học nông nghiệp là người dân nghèo, họ áp dụng kết quả nghiên cứu của mình cho đã là may chứ đừng nói đến chuyện bán kết quả đó để hoàn vốn. Cuối cùng do một phần năng lực của cán bộ chúng ta còn kém…
Ở Viện Chăn nuôi có hiện tượng cán bộ nghiên cứu bỏ ra ngoài làm không?
Những năm gần đây, Chính phủ đã đầu tư tương đối nhiều cho nghiên cứu khoa học của ngành chăn nuôi nhưng vẫn không mấy hấp dẫn, nhất là đối với những người trẻ. Như Viện tôi luôn ưu tiên lấy ngay những sinh viên tốt nghiệp loại ưu về mà 5-6 năm nay chẳng lấy được ai. Những người vào Viện gần đây phần đa là không bôn ba được với bên ngoài. Tôi rất hy vọng khi áp dụng cơ chế tự chủ 115 xem có cải thiện được điều gì không. Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy các đơn vị nghiên cứu ở những tỉnh nghèo tương đương Việt Nam hoặc có thể giàu hơn chút ít vẫn chưa thực hiện nổi cơ chế tự chủ hoặc thực hiện rồi lại bỏ.
Có khoảng bao nhiêu phần trăm những báo cáo khoa học của Viện được áp dụng vào thực tế?
Phải phân định rạch ròi giữa hai dạng nghiên cứu là nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Ở đơn vị chúng tôi, tỷ lệ cho nghiên cứu cơ bản là 30-35% còn lại 65-70% là nghiên cứu ứng dụng. Hàng năm có hàng trăm báo cáo khoa học nhưng chúng tôi chỉ chọn ra khoảng 30-35% để chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất hoặc sản xuất thử. Từ thực tế sản xuất sẽ điều chỉnh những phần chưa phù hợp trong nghiên cứu.
Trong lĩnh vực chăn nuôi, thế giới họ đang đi theo hướng nào, chúng ta có bắt nhịp được với họ hay không?
Đối với giống cây trồng , thành quả khoa học có thể thấy rõ như ở lúa lai, ngô lai, cây biến đổi gen nhưng đối với giống vật nuôi rất khó. Cừu Dolly chỉ là một sản phẩm nghiên cứu chứ không nhân ra sản xuất hàng loạt được. Công nghệ sinh học, công nghệ gen khi áp dụng với vi sinh vật có thể thu được kết quả nhưng với vật nuôi còn cả một chặng đường rất dài phía trước.
Trong chăn nuôi, thế giới họ đi theo hướng chọn ra những dòng thuần có những đặc tính tốt rồi kết hợp lại thành tổ hợp lai có tính tốt của 2, 3, 4 thậm chí 5 gốc như những động vật chuyên trứng, sữa, thịt…Những nước phát triển cũng đã quan tâm đến sản phẩm chăn nuôi hữu cơ, tức là chăn nuôi dạng sạch. Ở ta về giống vật nuôi cũng đang theo xu hướng lai còn chăn nuôi hữu cơ có thể bắt đầu tiếp cận nhưng nó đòi hỏi những điều kiện kinh tế nhất định nên rất khó.
Xin cảm ơn ông!
Khai mạc hội nghị khoa học Viện Chăn nuôi Từ 4-5/9 tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị khoa học của Viện Chăn nuôi. Hội nghị lần này có 109 báo cáo và thông báo khoa học đã được các Hội đồng khoa học cơ sở chọn lọc để tham gia. Hội nghị sẽ tập trung đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học trong năm 2007, thảo luận kinh nghiệm về nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. |