| Hotline: 0983.970.780

Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé: Bộ NN-PTNT báo cáo Thủ tướng

Thứ Tư 14/11/2018 , 10:15 (GMT+7)

Mới đây, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 8915/VPCP-NN ngày 17/9/2018 của Văn phòng Chính phủ, Bộ NN-PTNT đã có báo cáo các vấn đề liên quan đến Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1. Báo cáo do Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Hoàng Văn Thắng ký.

Kiểm soát nguồn nước

Theo báo cáo, khi xây dựng Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn I sẽ kiểm soát nguồn nước, tạo điều kiện sản xuất ổn định cho vùng hưởng lợi với diện tích tự nhiên 384.120ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 346.241ha. Giảm thiệt hại do thiên tai (hạn, mặn) vào mùa khô cho đất lúa vùng U Minh Thượng và Tây sông Hậu, đất tôm - lúa cũng như chuyên tôm ở huyện An Minh và An Biên, tỉnh Kiên Giang.

10-52-41_1311182
Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Hoàng Văn Thắng (đứng) tại cuộc hội thảo ở tỉnh Kiên Giang ngày 7/9 có đông nhà khoa học và quản lý tham dự

Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé tăng cường giữa ngọt trong mùa mưa cho diện tích tôm - lúa vùng An Minh, An Biên với những năm mưa ít. Bên cạnh, phòng chống thiên tai: tăng cường tiêu thoát và giảm ngập úng cho vùng hưởng lợi của dự án; giảm khối lượng đắp đập tạm hàng năm của tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang. Trữ nước vào mùa mưa để phục vụ tiêu chua, rửa phèn, cải tạo đất và phục vụ sản xuất, sinh hoạt trong mùa khô, giảm quy mô và diện tích khai thác nước ngầm. Tạo nguồn cấp nước bổ sung để duy trì hệ sinh thái của rừng, phòng và chống cháy rừng trong mùa khô.

Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé còn tăng cường khả năng thoát lũ, tiêu úng, tiêu chua và cải tạo đất trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng và sụt lún đất. Kết hợp tuyến để biển Tây tạo thành cụm công trình phòng chống thiên tai, nước dâng do bão, giảm ngập úng khi mặt đất hạ thấp (do sụt lún đất). Vận hành cống để cắt triều cường trong trường hợp mưa lũ lớn và mở cửa để đầy nhanh tiêu thoát khi triều cường xuống.

Tài liệu phân tích, đặc điểm vùng này mặn ngọt không ổn định. Vùng có nguồn nước mặn - lợ thường xuyên (chủ yếu ven biển, ven sông Cái Lớn) sản xuất chính là nuôi tôm. Tuy nhiên, cần độ mặn trong ngưỡng an toàn và thuận lợi cho sinh trưởng của tôm, thường yêu cầu dưới 25%o. Trong khi đó, độ mặn vùng này vào mùa khô có những thời điểm lên đến 35-40%o, không phù hợp với nuôi tôm. Nhiều nơi phải hút nước ngầm bổ sung nguồn ngọt, làm cho lún sụt gia tăng mạnh. Việc xây dựng công Cái Lớn - Cái Bé sẽ điều tiết nguồn nước trong vùng phục vụ sản xuất (kiểm soát mặn, hỗ trợ tạo nguồn nước ngọt đầu mùa khô và những năm ít mưa trong mùa mưa).
 

Giải trình ý kiến phản đối

Báo cáo cho biết, Bộ NN-PTNT đã tổ chức lấy ý kiến rộng rãi các nhà khoa học trong và ngoài ngành thủy lợi. Chủ đầu tư cũng ký hợp động với Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL của Trường Đại học Cần Thơ thực hiện phản biện xã hội về việc đầu tư xây dựng dự án. “Đa số các ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học, địa phương và Hội Khoa học Kỹ thuật Thủy lợi TP.HCM đồng thuận với việc xây dựng dự án và đề nghị Bộ NN-PTNT sớm triển khai thực hiện, tuy nhiên cũng còn một số ý kiến băn khoăn về tác động của dự án và đề nghị chưa triển khai thực hiện”, báo cáo viết.

Về ý kiến: “Dự án chưa thực hiện theo Nghị quyết I20/NQ-CP của Chính phủ”, thậm chí “đi ngược lại” và “Dự án có nhiệm vụ ngọt hóa, phục vụ sản xuất lúa ở vùng Bán đảo Cà Mau”. Báo cáo của Bộ NN-PTNT giải trình: Giải pháp thủy lợi chỉ nhằm kiểm soát nguồn nước để hỗ trợ cho các mô hình sản xuất, với vùng kinh tế nước ngọt thì ngăn xâm nhập mặn lúc triều cường, hỗ trợ chuyển nước ngọt ở những năm mực nước sông Hậu thấp; với vùng sản xuất dựa vào nước mặn - lợ, giải pháp thủy lợi đảm bảo độ mặn không thay đổi quá mức, bất lợi cho sản xuất nông nghiệp; còn với vùng có sản xuất nông nghiệp dựa vào nguồn nước ngọt - lợ luân phiên, giải pháp thủy lợi đảm bảo ôn định nguồn nước cho mô hình canh tác này. “Dự án không có mục tiêu ngọt hóa ở vùng thường xuyên có nước mặn, lợ”, báo cáo khẳng định.

10-52-41_1311181
Chuyên gia trong và ngoài nước khảo sát khu vực dự án Cái Lớn - Cái Bé

Về ý kiến “Dự án Ba Lai là dẫn chứng không thành công khi làm ngọt hóa”. Báo cáo giải trình, dự án Ba Lai chưa hoàn thành nên thời gian qua vẫn có thiệt hại lớn. Tuy nhiên, hiện dự án đã được Chính phủ Nhật Bản cho vay vốn để hoàn thành vào năm 2023. Khi hoàn thành, dự án sẽ kiểm soát mặn và tiêu nước cho 204.270ha đất tự nhiên thuộc 9 huyện/thành phố của tỉnh Bến Tre. Chủ động phục vụ sản xuất nông nghiệp kết hợp nuôi trồng thủy sản cho khoảng 110.442ha theo hướng đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi; cung cấp nước ngọt phục vụ sản xuất và sinh hoạt cho 207.275 hộ dân.

Về ý kiến: “Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn I làm xong có khép kín không?”. Báo cáo giải trình, dự án nằm trong tổng thể toàn vùng, trong đó tuyến đê ven Biển Tây và các cống trên tuyến đê đã cơ bản hoàn thành (hiện còn 16 cống vùng An Minh, An Biên đang được tỉnh Kiên Giang chuẩn bị đầu tư), các cống trên tuyến đê ven Biển Tây sử dụng vốn vay của WB và nguồn vốn khác đã được thực hiện. Khi cống Cái Lớn - Cái Bé được xây dựng sẽ khép kín toàn vùng đê Biển Tây thuộc tỉnh Kiên Giang, đảm bảo việc kiểm soát nguồn nước, hỗ trợ ổn định sản xuất trước tác động cực đoan từ Biển Tây. Còn tác động từ Biển Đông vào vùng dự án cơ bản đã được kiểm soát bởi các cống của hệ thống Quản Lộ - Phụng Hiệp.

Về ý kiến: “Nguy cơ tác động môi trường của dự án”. Báo cáo giải trình, kết quả tính toán của GS.TS Tăng Đức Thắng và GS.TS Nguyễn Tất Đắc cho thấy, khi xây dựng công trình trên sông Cái Lớn, Cái Bé, có tác động đến môi trường vùng dự án, nhưng tác động này không lớn, có thể khắc phục bằng quy trình vận hành hệ thống. Thời gian trung bình để kiểm soát mặn của cống là 24 ngày/năm (chia làm nhiều đợt, bình quân 6 ngày/tháng cho 4 tháng mùa kiệt); đối với năm nhiều nước, thời gian vận hành có thể ít hơn và ngược lại. Trong tương lại, khi nước biển dâng, đất sụt lún thì thời gian đóng cửa cống sẽ nhiều hơn là xu thế chung của tất cả các công trình. “Như vậy, có thể thấy các tác động môi trường của dự án đều có thể chủ động kiểm soát được”, báo cáo viết.
 

Kết luận

Báo cáo của Bộ NN-PTNT “trân trọng ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, đây là những góp ý chân tình và đầy trách nhiệm, Bộ đã chỉ đạo các cơ quan Bộ nghiêm túc lắng nghe, tiếp tục nghiên cứu để có giải pháp khắc phục tốt nhất những tồn tại, hạn chế”. Báo cáo cũng nhấn mạnh đây là công trình có quy mô lớn, xây dựng ở vùng đất có điều kiện tự nhiên phức tạp, chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu, phát triển của vùng và thượng nguồn nên “đang tập trung chỉ đạo đồng bộ, để làm rõ, tạo đồng thuận và sớm triển khai xây dựng vào năm 2019”.

Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn I, xây cống trên hai con sông đổ ra biển Tây lớn nhất ĐBSCL tại tỉnh Kiên Giang, vốn đầu tư 3.310 tỷ đồng. Giai đoạn 2 với số vốn tương tự, xây dựng một số công trình khác, để cả dự án có khả năng giúp chủ động sản xuất nông nghiệp trên vùng đất tự nhiên rộng 909.248ha ở các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng và TP Cần Thơ.

 

Xem thêm
Giải bài toán nguồn thức ăn cho ngành chăn nuôi

GIA LAI Thu hút đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi là chủ trương đang được tỉnh Gia Lai hướng đến.

Truy tố những trường hợp để chó, mèo gây hậu quả nghiêm trọng

Đắk Lắk sẽ điều tra, truy tố, xử lý nghiêm những trường hợp không tuân thủ quy định trong việc nuôi, quản lý chó, mèo để xảy ra hậu quả nghiêm trọng.

Mời SunRice tham gia Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao

ĐỒNG THÁP Tập đoàn SunRice đang khuyến khích nông dân ĐBSCL các biện pháp canh tác lúa bền vững và đặt mục tiêu giảm lượng khí thải carbon bằng 0 trong chuỗi giá trị vào năm 2050.

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm