Giống lúa lai 3 dòng C ưu đa hệ số 1 có nguồn gốc từ Trung Quốc, được tạo ra từ tổ hợp lai CA/Đa hệ số 1 do Công ty Giống cây trồng Tây Khoa - Tứ Xuyên - Trung Quốc chọn tạo.
Năm 2001, giống đã được tỉnh Tứ Xuyên - Trung Quốc công nhận chính thức và được Sở Nông nghiệp Tứ Xuyên chọn là giống lúa trọng điểm để mở rộng sản xuất của tỉnh. Tại Việt Nam giống được Công ty TNHH Nông nghiệp Á Thái nhập về giới thiệu và khảo nghiệm trong mạng lưới khảo nghiệm Quốc gia từ vụ xuân 2009.
Qua 3 vụ khảo nghiệm (VCU) liên tục (xuân 2009, mùa 2009 và xuân 2010) trong hệ thống khảo nghiệm Quốc gia tại các tỉnh đại diện cho các vùng sinh thái phía Bắc như Tuyên Quang, Phú Thọ, Hòa Bình, Hưng Yên, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh... giống đã thể hiện được những ưu điểm như:
Giống có thể gieo cấy được cả 2 vụ trong năm, thời gian sinh trưởng 129-130 ngày trong vụ xuân, vụ mùa là 109-110 ngày. Giống sinh trưởng và phát triển khoẻ, chịu thâm canh cao, khả năng đẻ nhánh khá, cứng cây, trỗ tập trung. Mức độ nhiễm các loại sâu bệnh chính như đạo ôn, bạc lá và rầy nâu nhẹ.
Về năng suất, giống C ưu đa hệ số 1 cho năng suất cao và ổn định. Trong 2 vụ xuân 2009 và xuân 2010 năng suất bình quân 66,2-76,7 tạ/ha, cao hơn đối chứng Nhị ưu 838 (64,5-73,7 tạ/ha); cao nhất đạt 86,0 tạ/ha tại điểm khảo nghiệm Hưng Yên. Vụ mùa 2009 năng suất bình quân đạt 59,1 tạ/ha, cao hơn giống Nhị ưu 838 (57,3 tạ/ha).
Về chất lượng gạo, giống C ưu đa hệ số 1 có tỷ lệ gạo lật (81,2%), tỷ lệ gạo xát (75,4%) và tỷ lệ gạo nguyên (84,5%) cao hơn hẳn giống Nhị ưu 838 đối chứng.
Với kết quả trên giống lúa lai 3 dòng C ưu đa hệ số 1 đã được Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng và phân bón Quốc gia đánh giá là giống có triển vọng qua 3 vụ khảo nghiệm và đề nghị công nhận cho sản xuất thử.
Qua kết quả khảo nghiệm cơ bản trong mạng lưới khảo nghiệm Quốc gia, khảo nghiệm sản xuất và sản xuất thử ở cả vụ xuân và mùa tại các tỉnh phía Bắc đều đạt kết quả tốt, Bộ NN- PTNT đã quyết định công nhận chính thức giống lúa lai 3 dòng C ưu đa hệ số 1 trong vụ xuân muộn, mùa sớm tại các tỉnh phía Bắc tại Quyết định số 629/QĐ-TT-CLT ngày 1 tháng 11 năm 2011.