| Hotline: 0983.970.780

Kinh nghiệm xây dựng NTM

Thứ Năm 13/01/2011 , 11:52 (GMT+7)

Trong thời gian gần đây, nhóm nghiên cứu do TS Vũ Trọng Bình, Viện Chiến lược Chính sách NN-PTNT, đứng đầu thông qua Dự án Imola đã tiến hành nghiên cứu tại Thừa Thiên – Huế về phát triển nông thôn ở nhiều khía cạnh khác nhau.

Với những kết quả thu được, được tổng kết trong cuộc hội thảo vừa diễn ra, nhiều chuyên gia và nhà quản lý cho rằng sẽ là bài học quý để các địa phương trong cả nước, đặc biệt là cấp huyện, xã có cách nhìn, phương pháp tiếp cận và cách làm phù hợp để thực hiện thắng lợi Chương trình Quốc gia phát triển NTM. NNVN xin giới thiệu những bài học kinh nghiệm được nhóm nghiên cứu này rút ra. 

I. QUY HOẠCH VÀ QUẢN LÝ QUY HOẠCH 

TS Vũ Trọng Bình cho rằng, điều quan trọng trước nhất trong xây dựng nông thôn là cần phải thông tin toàn diện, tổng thể cho cộng đồng dân cư, để tạo điều kiện xây dựng tầm nhìn tổng quát về phát triển tiềm năng của địa phương mình. Đồng thời, phải bản đồ hóa thông tin về tài nguyên, lợi thế, nguồn lợi phục vụ cho việc quy hoạch và quản lý, đặc biệt là đối với những khu vực có tài nguyên và nguồn lợi cao như khu vực ven biển, vùng đất đai màu mỡ... Nhất thiết, việc quy hoạch phải gắn liền với kế hoạch quản lý. Lấy cộng đồng dân cư là chủ thể và tiến hành xây dựng các thể chế nông thôn và phi tập trung hóa.

Vậy, phải quy hoạch thế nào? Nhóm nghiên cứu này đưa ra kết luận rằng, phải có cách thức quy hoạch và lập kế hoạch quản lý vùng dựa trên việc xây dựng những luận cứ khoa học chặt chẽ cho quy hoạch và những đánh giá hiện trạng tài nguyên môi trường, nguồn lợi, lợi thế của địa phương mình. Chủ thể thực hiện quy hoạch phải đóng vai trò là hạt nhân trong quá trình xây dựng quy hoạch, đồng thời phải dân chủ hóa kế hoạch quản lý. Ở đây, cán bộ địa phương (thôn – xã) phải thực hiện tham gia một cách tích cực và thể chế hóa các quy hoạch đó, có cộng đồng dân cư tham gia xây dựng. Trong việc xây dựng kế hoạch quản lý thì phải dựa trên thí nghiệm xây dựng các phương pháp, công cụ kỹ thuật hỗ trợ trong quản lý tài nguyên và cộng đồng là chủ thể.

TS Vũ Trọng Bình cho rằng, thông thường trước đây chính quyền hoặc cơ quan chuyên môn là người đứng là lập kế hoạch phát triển và thường quy hoạch theo kiểu quy hoạch vùng bằng những kinh nghiệm của cán bộ. Nhưng những nghiên cứu của nhóm nghiên cứu cho thấy, người lập kế hoạch phải là cộng đồng (cụ thể ở Huế là hội nghề cá) làm trung tâm. Đồng thời trước khi tiến hành quy hoạch thì phải có điều tra tổng thể, trong đó ý kiến của cộng đồng dân cư, đặc biệt là những người trực tiếp tham gia vào quản lý, sản xuất tại khu vực được quy hoạch. Như vậy, việc quy hoạch và lên kế hoạch quản lý, phát triển phải lấy người dân làm trung tâm. Nếu tách rời, làm như cách thông thường từ trước đến nay sẽ dễ dẫn đến không hiệu quả đã xảy ra rất nhiều trong thực tế và đó cũng là một trong những nguyên nhân gây nên sự bức xúc trong cộng đồng dân cư khi quy hoạch phát triển không được thực hiện.

Sau cùng là quản lý quy hoạch. Từ trước đến nay, thông thường, việc quản lý quy hoạch thường không được giao rõ ràng. Và chính điều này, quy hoạch dẫu mang tính pháp lý rất cao nhưng thực tế thì không phải như vậy. Nhóm nghiên cứu cho rằng, việc quản lý quy hoạch phải được quy định cụ thể trong một quy chế của chi hội nghề cá (ở Huế), HTX, hoặc tổ đội sản xuất nông nghiệp… Đó là cách quản lý bền vững nhất. (Còn nữa)

Xem thêm
424 hộ nghèo tỉnh Ninh Bình được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở

Năm 2024, tỉnh Ninh Bình sẽ hỗ trợ hơn 37 tỷ đồng xây dựng, sửa chữa nhà ở cho 424 hộ nghèo, khó khăn trên địa bàn.

Hưng Yên: Nhiều giải pháp đảm bảo vệ sinh môi trường nông thôn

Những giải pháp dưới đây vừa giúp giảm căn bản ô nhiễm môi trường, vừa tạo ra lượng lớn phân hữu cơ chất lượng tốt chăm bón cho cây trồng.

Bến Tre bán sản phẩm OCOP trên Youtube, Tiktok

Hội Nông dân Bến Tre vừa có chương trình ghi nhớ hợp tác để thúc đẩy thương mại số sản phẩm OCOP.

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm