| Hotline: 0983.970.780

Kỹ thuật chăm bón lúa xuân 2015

Thứ Năm 05/02/2015 , 10:04 (GMT+7)

Phân lân nung chảy Văn Điển giúp cây lúa khoẻ, đẻ sớm, đẻ gọn, số dảnh hữu hiệu cao, giàn lúa đồng đều, cứng cây, dày lá, ít sâu bệnh gây hại...

Cây lúa xuân cấy vào tháng 1 - 3, ở giai đoạn đầu phát triển trên nền nhiệt độ thấp 12 - 20 độ C nên phát triển chậm, nhiều yếu tố môi trường bất lợi gây cho lúa nhiều sâu bệnh, chủ yếu bệnh nghẹt rễ, rễ đen khiến cây kém sinh trưởng.

Đặc biệt ở những chân ruộng chua, nhiễm mặn, đất giàu sét, nhiều kim loại nặng (Fe, Al…), nếu bón phân lân thông thường dễ chuyển thành dạng khó hòa tan tồn trong đất, cây trồng khó có thể hút được lượng lân đã bón.

Nhu cầu dinh dưỡng của lúa

Lân nung chảy Văn Điển rất thích hợp với các chân đất khó khăn, nếu bón 15 - 20 kg/sào Bắc bộ (360 m2) còn có tác dụng khử chua tương đương 7 - 10 kg vôi bột làm cho lúa chóng bén rễ hồi xanh và đẻ nhánh hữu hiệu.

Trong vụ xuân, nhiệt độ đầu vụ thấp nên ưu tiên bón kali sớm và nhiều hơn vụ khác. Nếu đất được trồng nhiều vụ, thời gian đất được nghỉ ngắn (3 - 4 vụ/năm) cần chú ý bón lót kali. Ngược lại, những chân ruộng chỉ cấy hai vụ lúa và có điều kiện cày ải trong vụ đông thì chỉ cần bón ít và thúc vào các thời kỳ cây cần nhất (đứng cái làm đòng và trước trổ).

Bước vào thời kỳ đẻ nhánh vào lúc nền nhiệt độ cao dần (20 - 30 độ C) cây lúa phát triển và phát dục nhanh hơn, cần chú ý bón đạm và kali để đón đòng và giúp cây chắc hạt. Trong chu kỳ sinh trưởng phát triển, cây lúa trải qua các giai đoạn: Cây mạ, đẻ nhánh, làm đòng và trỗ chín. Trong đó giai đoạn đẻ nhánh giữ một vai trò quan trọng quyết định năng suất chất lượng vụ lúa.

Để đạt năng suất cao cây lúa đã lấy đi từ đất một lượng lớn dinh dưỡng bao gồm các chất đa lượng như N, P, K các chất trung lượng như Silic, Magie, vôi, lưu huỳnh, các chất vi lượng như Bo, kẽm, Molipden, đồng, sắt... thời kỳ lúa đẻ nhánh nhu cầu dinh dưỡng được xem như nhiều nhất.

Thường thì vụ xuân sau cấy khoảng 2 tuần thời tiết ấm dần, từ 25 - 35 độ C, cây lúa phát triển mạnh, bước vào thời kỳ đẻ nhánh và phát dục nhanh hơn. Các nghiên cứu về phân bón vô cơ cho cây lúa ở thời kỳ này cho thấy tỷ lệ N: K2O: P2O5 phù hợp là 1:1:03 tuỳ theo điều kiện đất đai.

Ngoài ra cây lúa thời kỳ đẻ nhánh còn cần một tỷ lệ đáng kể canxi (vôi) để khử chua môi trường đất làm cho cây hấp thu thuận lợi các chất dinh dưỡng. Silic làm cho cây lúa cứng thành mạch, vỏ cây chống lại sự xâm nhiễm của các loại sâu bệnh. Magiê (MgO) làm tăng cường sự quang hợp của cây lúa. S cùng với MgO tăng cường tổng hợp chất khô các chất vi lượng giúp cho cây lúa tổng hợp các men để tạo thành các vitamin và tổng hợp tinh bột.

Để cho cây lúa đẻ nhánh sớm, nhánh hữu hiệu cao, ra nhanh lá mới và tăng chiều cao cây. Nếu bón phân thúc không cân đối nghiêng về đạm thì lúa đẻ nhánh kéo dài, nhánh hữu hiệu thấp, thân yếu, lá mềm, tích luỹ chất khô kém, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thời kỳ làm đòng, trỗ bông và năng suất.

Khảo sát ở nhiều nơi nông dân do chưa hiểu biết nên việc dùng đạm vẫn là phổ biến để bón thúc cho lúa hậu quả là: Lúa yếu, sâu bệnh gây hại bùng phát.

Hiệu quả phân bón Văn Điển

Để giúp bà con nông dân sử dụng phân bón có hiệu quả cao trong thời kỳ cây lúa đẻ nhánh, Cty CP Phân lân nung chảy Văn Điển đang cung ứng cho SX phân Đa yếu tố chuyên dùng bón lót NPK 10:12:5 và bón thúc cho lúa đẻ nhánh NPK 16.5.17 cung cấp cân đối và đầy đủ 19 chất dinh dưỡng cùng một lúc cho cây lúa trong suốt thời kỳ đẻ nhánh và làm đòng.

Bà con nông dân ở Thái Bình, Hưng Yên, Hà Nam, Hà Nội, Thái Nguyên... đã quen dùng phân chuyên thúc lúa NPK Văn Điển nhiều năm cho kết quả tốt tiết kiệm 1 lần bón phân nuôi đòng nuôi hạt, cây lúa khoẻ, đẻ sớm, đẻ gọn, số dảnh hữu hiệu cao, giàn lúa đồng đều, cứng cây, dày lá, ít sâu bệnh gây hại, lá đòng bền, có màu xanh vàng sáng, hạt mẩy, vỏ hạt sáng, tăng cường khả năng chống chịu sâu bệnh và những yếu tố bất lợi về thời tiết, giảm thuốc BVTV, năng suất cao, chất lượng gạo tốt, cải thiện độ chua của đất, hạn chế rong rêu, giảm lượng vôi bón ở chân ruộng chua, trũng, giảm chi phí chăm bón. Đó là những lựa chọn thông thái của bà con nông dân làm nên vụ xuân bội thu.

Cách thức bón

- Bón phân đơn: Thông thường bón theo tỷ lệ: 90N + 90P205 + 90 K20 (mức bón cho 1 ha (10.000 m2 ) = 196 kg ure (7-8 kg/sào) + 450 kg lân nung chảy Văn Điển 16% (15-20 kg/sào) + 180 kaliclorua 50% (6 kg/sào) + phân chuồng 8-12 tấn (300-400 kg/sào tùy điều kiện). Bón lót toàn bộ phân lân nung chảy, 2-3 kg đạm, 2 kg kali/sào số còn lại chia đôi cho bón thúc đợt I và II.

- Sử dụng phân Đa yếu tố Văn Điển chuyên lúa:

+ Bón lót: Bằng phân ĐYT NPK 6.11.2 chuyên dùng bón lót cho lúa (dạng trộn 3 hạt). Thành phần dinh dưỡng: Ngoài các chất đa lượng là N=6%, P2O5=11%, K2O=2%; còn có các chất trung lượng là S=2%, MgO=10%, CaO=20%, SiO2=15% và các chất vi lượng như B, Mn, Zn, Cu, Co... tổng hàm lượng dinh dưỡng trên 60%.

Hoặc phân ĐYT NPK 5.10.3 (dạng vê viên). Thành phần dinh dưỡng: Ngoài các chất đa lượng là N=5%, P2O5=10%, K2O=3%; còn có các chất trung lượng là S=2%, MgO=9%, CaO=15%, SiO2=14% và các chất vi lượng như B, Mn, Zn, Cu, Co... tổng hàm lượng dinh dưỡng trên 58%.

+ Bón thúc: Bằng phân ĐYT NPK 16.5.17 chuyên dùng bón thúc cho lúa (dạng trộn 3 hạt). Thành phần dinh dưỡng: Ngoài các chất đa lượng là N=16%, P2O5=5%, K2O=17%; còn có các chất trung lượng là S=2%, MgO=5%, CaO=8%, SiO2=7% và các chất vi lượng như B, Mn, Zn, Cu, Co... tổng hàm lượng dinh dưỡng trên 60%.

+ Mức bón (kg/sào 360 m2):

Giống lúa

Bón lót

Bón thúc đẻ nhánh

Lúa thuần

200-300kg phân chuồng +  20-25kg phân ĐYT NPK 6.11.2 (dạng trộn 3 hạt) hoặc 20- 25 kg phân ĐYT NPK 5.10.3 (dạng vê viên)

10 - 12 kg phân ĐYT NPK 16.5.17

(dạng trộn 3 hạt)

Lúa lai

200-300kg phân chuồng + 20-25kg phân ĐYT NPK 6.11.2 (dạng trộn 3 hạt) hoặc 20- 25 kg phân ĐYT NPK 5.10.3 (dạng vê viên)

12 - 15 kg phân ĐYT NPK 16.5.17

(dạng trộn 3 hạt)

Cách bón:

1. Bón lót:

- Đối với lúa cấy: Bón lúc bừa hoặc trước khi bừa lần cuối, cùng với phân chuồng để vùi sâu phân xuống dưới, sau đó để lắng đất, gạn bớt nước trong rồi mới cấy. Trường hợp nước lớn, ruộng có bờ bao, nước không chảy vẫn bón bình thường, lưu ý tránh không để chảy mất nước đục sẽ mất phân.

- Đối với lúa gieo sạ: Bón ngay khi bừa chít trước khi lên luống gieo sạ.

Nếu không có phân chuồng thì bón tăng lượng phân ĐYT NPK 6.11.2 (dạng trộn 3 hạt) hoặc phân ĐYT NPK 5.10.3 (dạng vê viên) bón lót thêm 3-5 kg/sào.

2. Bón thúc:

- Đối với lúa cấy: Bón thúc ngay khi lúa ra lá mới (lá nõn dong).

- Đối với lúa gieo sạ: Bón khi cây lúa có 3,5 - 4 lá (lúa bắt đầu đẻ nhánh).

Chỉ ở những chân ruộng mỏng mầu, ráo nước, cát pha thì mới phải bón thúc lần 2 vào thời kỳ đón đòng, dùng 4 - 5 kg NPK 16.5.17 để thúc vào buổi chiều tạnh nắng, tuyệt đối không để phân dính trên lá.

Chú ý:

- Lúa đã bón đủ liều lượng NPK Văn Điển theo hướng dẫn, không phải bón thêm đạm và các loại phân khác.

- Tuyệt đối không bón lai rai làm cây lúa sinh trưởng liên tục, nhiều lá, nhiễm sâu bệnh, làm cho năng suất và chất lượng giảm.

Xem thêm
Một con bò có thể tạo ra 2 tỷ điểm dữ liệu trong suốt cuộc đời

Theo các chuyên gia ngành chăn nuôi Mỹ, ứng dụng công nghệ gen đóng vai trò quan trọng trong nhân giống bò sữa, giúp tối đa hóa tiến bộ di truyền.

Truy tố những trường hợp để chó, mèo gây hậu quả nghiêm trọng

Đắk Lắk sẽ điều tra, truy tố, xử lý nghiêm những trường hợp không tuân thủ quy định trong việc nuôi, quản lý chó, mèo để xảy ra hậu quả nghiêm trọng.

Đốt rơm rạ là... đốt tiền

ĐỒNG THÁP Chưa khi nào nông dân thấy giá trị của rơm rạ như bây giờ, thu hoạch xong không đốt bỏ mà bán cho hợp tác xã, xử lý thành các sản phẩm đa dụng...

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm