Tác giả của “quả bom” trên sàn chuyển nhượng giống
Ở tuổi ngoài 80, PGS.TS, Anh hùng Lao động Nguyễn Thị Trâm vẫn bận rộn với những ruộng lúa, ao bèo hoa dâu bởi nghiên cứu khoa học đã là cái nghiệp.
Bà đã có hơn nửa thế kỷ trải nghiệm những thăng trầm của việc nghiên cứu khoa học. Năm 1968, khi vừa mới tốt nghiệp đại học, kỹ sư trẻ Nguyễn Thị Trâm được cử về Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) để chọn tạo giống lúa.
Nghiên cứu khoa học hồi ấy vất vả nhưng mà vui. Nhà khoa học không phải lo xin đề tài, lo thanh toán tài chính mà chỉ tập trung cho nghiên cứu. Công việc thì do bộ môn phân công, còn đầu tư thì đã có Phòng Khoa học và Phòng Tài vụ lo, bởi thế họ được chuyên tâm dành thời gian, trí tuệ, công sức cho thí nghiệm, chủ yếu là trên đồng ruộng.
Khi học xong Phó Tiến sĩ ở Liên Xô năm 1984, bà về Đại học Nông nghiệp I (nay là Học viện Nông nghiệp Việt Nam) vừa giảng dạy (70%) vừa nghiên cứu (30%). Lúc này bắt đầu phải xin đề tài nhưng cơ chế tài chính vẫn khá thoải mái, tự quản lý, tự báo cáo.
Năm 1991, giống lúa lai Trung Quốc bắt đầu tràn vào Việt Nam. Một thời gian sau, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Lúa lai thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam được thành lập, làm đầu mối nghiên cứu về lúa lai trong cả nước. Lúc đó bà Trâm xin được một đề tài nhánh chọn tạo lúa lai hai dòng với cơ chế tài chính tự quản lý, tự báo cáo và vẫn chủ yếu tin nhau là chính.

PGS.TS, Anh hùng Lao động Nguyễn Thị Trâm. Ảnh: Dương Đình Tường.
Bà nhớ lại: “Nhóm nghiên cứu của chúng tôi có 4 thầy cô trong Bộ môn Di truyền - Chọn giống cây trồng (Khoa Trồng trọt - Đại học Nông nghiệp I). Năm 1999, Viện Sinh học nông nghiệp của Đại học Nông nghiệp I được thành lập theo cơ chế tự chủ. Tôi đến tuổi nghỉ hưu nên chuyển đến đó làm việc. Đề tài tạo giống lúa lai do tôi chủ trì cũng được chuyển đến Viện tiếp tục triển khai. Phòng Khoa học vẫn quản lý nội dung khoa học, Phòng Tài vụ theo dõi việc chi tiêu tài chính. Nhóm chỉ cần cử 1 người ghi chép mọi việc, làm các thủ tục như tạm ứng, rút tiền, thanh toán hóa đơn trung thực mà đơn giản.
Năm 2005, giống lúa lai hai dòng TH3-3 được công nhận chính thức, là kết quả của sự tiếp nối nghiên cứu trong suốt cả chục năm trước dù khuôn khổ của đề tài chỉ có 5 năm. Năm 2004, Pháp lệnh Giống cây trồng có hiệu lực, cho phép các nhà khoa học được đăng ký bản quyền. Tôi đã đăng ký bản quyền đối với giống lúa lai TH3-3 nên được phép chuyển nhượng. Có một số công ty giống đã đặt vấn đề mua bản quyền. Tháng 6 năm 2008 chúng tôi quyết định làm hợp đồng bán cho Công ty TNHH Cường Tân giá 10 tỷ đồng với điều kiện chúng tôi phải chuyển giao công nghệ và xác định vùng sản xuất hạt giống giúp họ. Kinh phí được thanh toán trong 3 năm”.
Tiền bản quyền thu về được phân chia như sau: 10% nộp thuế bản quyền cho nhà nước, 30% nộp cho Trường để đầu tư khoa học công nghệ, 60% được sử dụng cho nội bộ nhóm nghiên cứu. Khi đó nhóm nghiên cứu có 12 người đã thảo luận thống nhất dùng 1/2 số tiền cho nhân viên theo thời gian và công sức đóng góp, 1/2 số còn lại mua 1 ô tô để đi triển khai trình diễn giống ở các địa phương, sửa chữa cơ sở vật chất, phát triển các nghiên cứu mới và nuôi quân. Là trưởng nhóm nên bà Trâm được chia hơn 1 tỷ đồng, đủ tiền mua một mảnh đất.

PGS.TS Nguyễn Thị Trâm trên ruộng thí nghiệm cùng đồng nghiệp. Ảnh: Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Sau sự kiện chuyển nhượng bản quyền giống TH3-3 ấy, nhóm nghiên cứu còn bán được một loạt bản quyền các giống khác như lúa lai TH3-4 giá 700 triệu đồng, TH3-5 giá 4,2 tỷ đồng, CT16 giá 500 triệu đồng, lúa thuần Hương Cốm 1 giá 500 triệu đồng. Những sản phẩm khoa học này đều được chuyển nhượng theo một con đường chung là: Sau khi giống được công nhận chính thức, tác giả đến các địa phương hợp tác làm mô hình trình diễn ngoài đồng, tổ chức hội nghị đầu bờ mời các nhà quản lý nông nghiệp địa phương, các công ty giống, nông dân đến để nhận xét, đánh giá, lựa chọn giống phù hợp. Qua 2 - 3 vụ theo dõi các mô hình, công ty nào thích thì trả giá, thuận mua, vừa bán.
Nhờ bán được bản quyền mà một đơn vị tự chủ về tài chính nhưng lương nghiên cứu viên được trả gấp đôi ba lần lương cơ bản. Đơn vị có quỹ phúc lợi khá nên đã hỗ trợ nhân viên học tập nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tập huấn ngắn hạn ở nước ngoài, thưởng lễ Tết nên có người còn tiết kiệm mua được nhà, được xe. Không khí nghiên cứu khoa học sôi nổi được lan tỏa khắp nơi khiến cho nhiều sinh viên trong Trường tìm đến làm khóa luận tốt nghiệp hay làm đề tài thạc sĩ, tiến sĩ về cây lúa.
Chọn thầu thấp nên vật tư rẻ tiền, nhanh hỏng
Năm 2018, Nghị định 70 của Chính phủ về quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng vốn nhà nước được ban hành. Nghị định này quy định sản phẩm được tạo ra phải được định giá rồi bán dưới dạng đấu thầu. Trong thực tế điều đó không khả thi với những sản phẩm khoa học như giống cây trồng bởi khi được công nhận giống mới, tác giả phải tự bỏ tiền đi trình diễn nhiều vụ, nhiều vùng, khi được nông dân chấp nhận thì doanh nghiệp mới thấy tiềm năng để hỏi mua bản quyền.

Đi cấy thí nghiệm. Ảnh: Dương Đình Tường.
Như giống lúa lai hai dòng TH3-3 được công nhận năm 2005 nhưng đến năm 2008 mới bán được bản quyền sau quá trình tác giả tự tổ chức trình diễn ở 26 tỉnh thành từ Huế trở ra Bắc. Từ năm 2018 đến nay, vì không bán được bản quyền nên đời sống của anh chị em trong Viện Sinh học nông nghiệp cứ giảm dần, một số nghiên cứu viên chuyển đi. Từ chỗ thu nhập gấp hai ba lần lương cơ bản nay họ chỉ hưởng lương cơ bản mà có lúc còn bị chậm.
“Thủ tục thanh toán tài chính cho đề tài dự án những năm gần đây ngày càng khó khăn phức tạp. Để mua bán vật tư, máy móc, hóa chất, phân bón phục vụ thí nghiệm đều phải mời thầu mà không được tự mua. Quy định tối thiểu phải có 3 đơn vị bỏ thầu, tổ chức hội đồng để chọn ra một đơn vị bỏ thấp nhất. Bởi thế các vật tư, máy móc phục vụ cho nghiên cứu toàn những loại rẻ tiền, hay hỏng, thậm chí có cả hàng giả.
Định mức nhà nước về công lao động rất thấp, trong khi đó công thực tế cao dần qua các vụ khiến các nhà khoa học phải nói dối bằng cách tăng số lao động khống lên. Mấy năm nay tôi không đi xin đề tài mà toàn anh em đi xin. Luật bất thành văn là phải “cắt” lại 10 - 20% gọi là “quản lý phí” cho bên xét duyệt. Thế là nhà nghiên cứu lại phải mua hóa đơn trôi nổi để tính chi phí đó vào chi phí thí nghiệm”, bà Trâm thổ lộ.

Đi cấy thí nghiệm. Ảnh: Dương Đình Tường.
Cũng theo bà, nghiên cứu khoa học có thành công và có thất bại nhưng đề tài nào cũng đòi phải thành công khiến cho các nhà khoa học không mạnh dạn nêu ý tưởng mới hoặc có nêu nhưng thường bị hội đồng gạt đi vì mạo hiểm.
Năm 2020, khi bà đọc tài liệu nước ngoài về tinh bột kháng tiêu hóa nội sinh trong cây lúa giúp ngăn chặn ung thư ruột kết, hạn chế tiểu đường và béo phì nên viết đề xuất xin đề tài gửi lên nhưng đã bị gạt năm 2021, năm 2022 tiếp tục đề xuất cũng lại bị gạt.
Có lẽ vì người ta sợ hướng đi đó mới quá sẽ không đạt được kết quả mong muốn? Nay thì Việt Nam đã quá chậm trong việc chọn tạo giống có tinh bột kháng tiêu hóa rồi vì nhiều nước như Trung Quốc, Nhật Bản hay Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) đều đã có giống “lúa chức năng” này rồi.
“Tôi hi vọng Nghị quyết 57 sẽ cởi trói cho công tác nghiên cứu khoa học, khi không may bị rủi ro thì nhà khoa học sẽ không bị trách nhiệm dân sự chứ nếu như trước đây đề tài không ra được kết quả là phải bỏ tiền túi ra mà đền hay bị hủy giữa chừng”, bà Trâm tâm sự.