| Hotline: 0983.970.780

Lúa mùa tái sinh + ớt đông sớm

Thứ Sáu 26/07/2013 , 09:52 (GMT+7)

Để cho hiệu quả cao đối với cây ớt đông, nông dân các vùng trồng ớt ở Quỳnh Phụ thường để lúa chét, cuối tháng 8 thu hoạch đã có quỹ đất trồng ớt đông sớm.

Ở Thái Bình, trong khi hầu hết các địa phương khẩn trương hoàn thành gieo cấy lúa mùa thì nông dân huyện Quỳnh Phụ lại tiến hành thu hoạch lúa chét (lúa tái sinh sau khi gặt lửng cây) để chuẩn bị quỹ đất cho vụ đông sớm ưa ấm.

VỤ SX CHÍNH

Phó Chủ tịch UBND xã Quỳnh Hội (Quỳnh Phụ) Nguyễn Xuân Trường cho biết, nông dân trong xã  luôn vụ đông là vụ SX chính, mang lại hiệu quả kinh tế cao gấp 2 - 3 lần so với lúa mùa, nhất là cây ưa ấm như ớt, ngô ngọt, rau các loại. Chính vì vậy, để sớm tạo quỹ đất SX, bà con đã để lúa chét sau khi gặt vụ xuân. Thời gian sinh trưởng, phát triển của lúa chét chỉ từ 45 - 50 ngày.

Ớt là cây ưa ấm, thời vụ trồng cho năng suất cao nhất khoảng 25/8 - 5/9 khi cây con đã được 25 - 30 ngày tuổi. Ở thời vụ này, ớt không những thu hoạch cho năng suất cao mà giá bán rất ổn định.

Vụ lúa xuân thường cho thu hoạch vào trung tuần tháng 6, nếu cấy vụ mùa phải chiếm đất từ 110 - 120 ngày mới cho thu hoạch, tức là cuối tháng 9 đầu tháng 10 mới trồng được ớt, song năng suất ớt chỉ bằng 50 - 60% so với vụ sớm và giá bán cũng thấp hơn.

Vì vậy, để cho hiệu quả cao đối với cây ớt đông, nông dân các vùng trồng ớt ở Quỳnh Phụ như Quỳnh Minh, An Ấp, Quỳnh Hội... thường để lúa chét, cuối tháng 8 thu hoạch đã có quỹ đất trồng ớt đông sớm.


Bón đạm cho lúa tái sinh 

Chị Mai Thị Thu Hương, Trung tâm Khảo nghiệm, Khuyến nông Thái Bình chia sẻ, Quỳnh Hội là một trong những địa phương có truyền thông trồng ớt đông và các cây màu có giá trị kinh tế cao.

Với tổng diện tích cấy lúa 400 ha, hằng năm xã có hơn 100 ha cây vụ đông là ớt. Trồng ớt kim (ớt quả nhỏ) trung bình thu được 4 - 5 tạ/sào, giá rẻ cũng được 20.000 đ/kg, trừ mọi chi phí cũng thu được 6 - 7 triệu đ/sào trong khoảng thời gian 100 ngày. Với mục tiêu hơn 100 ha trồng ớt mỗi năm và tính toán hiệu quả kinh tế, nông dân nơi đây đã chủ động để lúa chét từ năm 2011.

Tuy nhiên, cách làm lúa chét của các hộ nông dân ở Thái Bình không giống nhau và năng suất còn phụ thuộc vào thời tiết từng năm. Nếu sau gặt có mưa như vụ mùa 2012 ruộng cắt sát gốc rạ năng suất cao hơn hẳn.

Hộ anh Nguyễn Văn Thành ở thôn Phụng Công (Quỳnh Hội) chia sẻ: Sau khi gặt lúa xuân, để lại gốc rạ cao 35 - 40 cm (tính từ mặt ruộng), bón 3 - 4 kg đạm; 2 kg kali cho 1 sào vụ mùa 2012 trên 3,5 sào lúa BT7 thu được 4,5 tạ thóc. Cùng thôn, anh Nguyễn Duy Việt lại gặt lúa xuân cắt sát gốc rạ (cao khoảng 10 -15 cm), sau đó bón 6 kg đạm; 3 kg kali cho 1 sào thu được tới 172 kg thóc.

Trước thực tế trên, vụ mùa năm 2013 Trạm Khuyến nông huyện Quỳnh Phụ đã tiến hành theo dõi thí nghiệm các phương thức cắt gốc rạ cao thấp khác nhau: Cắt sát gốc rạ, cắt cao 20 -25 cm, cắt cao 35 - 40 cm và bón các công thức phân bón khác nhau để xác định hiệu quả của từng công thức.

Qua theo dõi kết quả bước đầu cho thấy, lúa chét tuy bông bé nhưng số bông/khóm cao hơn nhiều so với lúa cấy. Lúa cắt sát gốc rạ đẻ khỏe, có tiềm năng năng suất cao hơn các công thức khác. Trạm tiếp tục theo dõi, lấy số liệu chính xác để hoàn thiện qui trình cho nông dân các vùng có nhu cầu giải phóng quỹ đất sớm trồng cây màu vụ đông sớm có giá trị kinh tế cao.

MỘT HƯỚNG CHUYỂN ĐỔI

Hiện tại, Thái Bình mới chỉ có một số xã đưa lúa chét vào để tạo qũy đất sớm trồng ớt, lạc, ngô, khoai lang... vì vẫn còn một số tồn tại như năng suất bấp bênh, sâu bệnh lây lan cho lúa mùa, việc điều tiết nước, công tác bảo vệ SX còn nhiều khó khăn....

 Các cơ quan chuyên môn khuyến cáo, nếu để lúa chét cần quy hoạch vùng, điều tiết nước và bón phân đầy đủ, phòng trừ sâu bệnh kịp thời để thuận tiện cho quản lý và chỉ đạo SX.

Nếu làm được như vậy, đây cũng là một hướng đi theo mục tiêu chuyển đổi cơ cấu ngành, cụ thể chuyển các vùng trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây như ớt, ngô, khoai... tăng thu nhập cho nông dân.

Trao đổi với NNVN, ông Trần Xuân Định, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, người từng là PGĐ Sở NN-PTNT Thái Bình thì cho rằng, chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong lĩnh vực trồng trọt là một chủ trương có ý nghĩa và đúng hướng trong bối cảnh hiệu quả SX ngành trồng trọt ngày càng giảm thấp; đặc biệt là lĩnh vực SX lúa gạo khi thị trường tiêu thụ khó khăn, giá thấp, đầu vào cao, lãi mà nông dân thu được từ SX lúa gạo không còn hấp dẫn.

Mâu thuẫn nội tại trong bản thân ngành nông nghiệp đó là gạo thì thừa, xuất bán khó trong khi các sản phẩm khác (ngô, đậu tương..). lại phải nhập nội. Tuy nhiên, áp lực từ việc duy trì 3,8 triệu ha đất lúa khiến ngành trồng trọt trở nên cứng nhắc. Vậy làm gì vẫn đảm bảo duy trì đất lúa đảm bảo an ninh lương thực, nhưng không ảnh hưởng đến việc thực thi Nghị quyết của Quốc hội?

“Chúng ta nên hình thành khái niệm về chuyển đổi mềm trong lĩnh vực trồng trọt. Làm sao đất lúa vẫn giữ và gieo cấy 1 -2 vụ nhưng hiệu quả tăng lên nhiều lần. Để lúa chét, hiệu quả cao hơn vụ lúa mùa, nhưng chuỗi vụ đông kế tiếp mới là mấu chốt.

Quỹ đất có sẵn cho việc chủ động đưa các tiến bộ về cây có giá trị kinh tế cao vào, thu nhập của nông dân tăng cao gấp 5 - 10 lần so với cấy lúa mùa. Tạo dựng vùng nguyên liệu (ngô, đậu tương..) với cơ hội đưa các giống dài ngày hơn, tiềm năng cao hơn, áp dụng kỹ thuật mới (trồng dầy...) đưa năng suất lên mức cao nhất... Đó sẽ là giải pháp thuyết phục với nông dân để họ tự nguyện nguyện chuyển đổi.

Việc cần làm hiện nay là các viện nghiên cứu, các nhà khoa học nông nghiệp, cơ quan chuyển giao phải làm gì, làm thế nào để chính sách đó nhanh chóng đi vào thực tiễn”, ông Định nêu ý kiến.

“Lúa tái sinh có thể phát triển ở những vùng đất trũng, vụ HT thường bị ngập lụt vào thời kỳ thu hoạch (khoảng từ ngày 10/9 trở đi), nếu diện tích thường bị ngập lụt gieo cấy không ăn chắc, có thể sử dụng biện pháp để lúa tái sinh.

Tuy nhiên, diện tích làm lúa tái sinh cần quy hoạch vùng tập trung, liền vùng và quy mô ít nhất từ 5 ha trở lên để thuận lợi cho công tác bảo vệ, chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh.

Viện Di truyền nông nghiệp đang nghiên cứu, chuyển giao các giống lúa có khả năng tái sinh cao, năng suất đạt 4 - 5 tấn/ha (140 - 170 kg/sào), gạo ngon vào các năm tới, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu cây trồng, giảm chi phí, tăng hiệu quả SX”, PGS.TS Mai Quang Vinh, Viện Di truyền nông nghiệp.

Xem thêm
Nuôi 30 con chồn hương sinh sản, doanh thu 300 triệu đồng/năm

QUẢNG BÌNH Với 30 con chồn hương sinh sản và 20 con chồn thương phẩm, mỗi năm gia đình anh Đức thu về khoảng 300 triệu đồng.

Truy tố những trường hợp để chó, mèo gây hậu quả nghiêm trọng

Đắk Lắk sẽ điều tra, truy tố, xử lý nghiêm những trường hợp không tuân thủ quy định trong việc nuôi, quản lý chó, mèo để xảy ra hậu quả nghiêm trọng.

Lúa đông xuân sớm được mùa, nông dân lãi 20 triệu đồng/ha

QUẢNG BÌNH Các diện tích lúa đông xuân sớm tại Quảng Bình hiện đã thu hoạch, năng suất bình quân khoảng 65 tạ/ha, nông dân lãi hơn 20 triệu đồng/ha…

Đốt rơm rạ là... đốt tiền

ĐỒNG THÁP Chưa khi nào nông dân thấy giá trị của rơm rạ như bây giờ, thu hoạch xong không đốt bỏ mà bán cho hợp tác xã, xử lý thành các sản phẩm đa dụng...

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm