Ông Hữu Thọ sinh ngày 8/1/1932, tức ngày 1/12 năm Tân Mùi. Như thế, tính cả tuổi mụ như truyền thống người Việt, cho đến lúc ông nhắm mắt xuôi tay, ngày 13/ 8/2015, ông đang tuổi 85.
Trong một lần trả lời phỏng vấn Báo Nông nghiệp Việt Nam, ông đã kể cho chúng tôi nghe năm 1957, cùng một lúc ông nhận hai quyết định, đó là quyết định Tỉnh ủy Hải Dương điều ông về làm lãnh đạo huyện và một nữa, của Báo Nhân Dân gọi ông về làm báo; ông đã thực hiện quyết định thứ hai.
Nghề làm báo rồi cũng đưa ông lên ngạch quan lộ, làm đến Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, Ủy viên Trung ương Đảng - Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, nhưng ông vẫn thích mọi người gọi ông là nhà báo Hữu Thọ, như ông vẫn giữ chuyên mục cho một số báo mãi gần đây mới thôi.
Ông, trước hết là trí thức làm nghề, có thể vận câu “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” của tiền nhân vào đời ông thật đúng.
Ông không được học nhiều trên ghế nhà trường, tiếng là học trò Trường Bưởi, bậc trung học, nhưng 14 tuổi đã tham gia cách mạng. Như thế là ông chủ yếu tự học, tập quán của người tự học ở ông cũng thật tiêu biểu, là hiếu học, học suốt đời và không giấu dốt.
Năm đã ngoài 80, trò chuyện với tôi, ông nói ông không thể cảm thụ nổi cái đẹp của tranh siêu thực và "không gian Lê Bá Đảng".
Ông nói: “Không hiểu nổi thì phải tin chuyên gia, đó là nguyên tắc của người lãnh đạo và của người tử tế để tránh bệnh bảo thủ và cản trở bước phát triển của khu vực mình quản lý".
Khi nghe tôi than thở về cung cách các trí thức làm nghề ở địa phương hay bị lãnh đạo coi thường, ông thở dài: “Tôi may mắn hơn ông. Đảng viên khi chưa cầm quyền đều trong sáng cầu thị. Tôi sinh hoạt chi bộ ngoài Cầu Đất, cùng các đảng viên làm nghề bốc vác ở Cảng, tôi dạy bình dân học vụ cho họ. Họ gọi tôi là cậu, rất trọng thị”.
Xuất thân thị dân, nhưng có thời gian dài sống cùng công nông, ông thấu hiểu họ. Quan hệ thân gần - thấu hiểu để giúp nhau đã khiến Hữu Thọ có loạt bài xuất sắc về khoán quản ở Vĩnh Phú, rồi Thủy Nguyên (Hải Phòng).
Đáng kể nhất, nó ra song hành với những suy nghĩ trăn trở tìm hướng đi cho phương thức SX nông nghiệp của các nhà lãnh đạo cao cấp. Như thế có cái nguy hiểm, ông Kim Ngọc chẳng đã bị kỷ luật vì khoán hộ đấy thôi.
Vì những người học hành chính quy, bằng cấp đầy mình thường bê nguyên xi giáo lý vào thực tế, vẫn đồng nhất mô hình (quốc doanh và tập thể) với thể chế XHCN.
Như thế, là ông Hữu Thọ đặt cược sinh mệnh chính trị của mình vào sinh mệnh công nông, vào những gì ông vững tin vào chân lý: Mô hình là khả biến, lý tưởng thì bất biến.
Ông Hữu Thọ được mệnh danh là “người hay cãi” - do trước hết đó là tên cuốn sách tập hợp những bài viết “cãi lại các giáo điều đã trở nên xơ cứng”.
Đó cũng là mảng đóng góp đáng kể của ông trong đổi mới lý luận và phương thức lãnh đạo.
Ông có cách kể lại thực khiêm tốn những đóng góp ấy, như vừa nói vừa lắng nghe cảm nhận của tôi: “Chúng ta gần như yên tâm gắn định nghĩa với mô hình, coi mô hình là định nghĩa. Trong Hội thảo Tổng kết 25 năm đổi mới, vẫn có ý kiến hỏi CNXH là gì.
Sau Đại hội lần thứ XI của Đảng, phát biểu tại Hội đồng Lý luận Trung ương, đồng chí Tổng Bí thư cũng đặt vấn đề tiếp tục nghiên cứu xem CNXH là gì? CNXH ở Việt Nam là gì?
Thật sự, chúng ta vừa làm vừa mò mẫm cả về lý luận lẫn mô hình. Đã có những bước tiến, rõ dần ra nhưng chưa rõ hẳn, nếu không thể trả lời cho thật rõ, thì khi nói “kiên định con đường CNXH” sẽ nảy sinh vấn đề: Sao lại kiên định với cái còn chưa thật rõ ràng?
Để giải quyết vấn đề này, không thể không nghiên cứu thấu đáo Tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng ta đã xác định Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết tinh sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới.
Hình như về sau ta làm chưa tốt. Khi đã duy danh định nghĩa Tư tưởng Hồ Chí Minh như thế, thì ngay cả khi coi học thuyết Mác - Lê là nòng cốt của Tư tưởng Hồ Chí Minh, thì nòng cốt vẫn không phải là tất cả.
Câu “Nhà nước (của ta) là của dân, do dân và vì dân” mà ta hay nhắc lại trong các văn kiện là của Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln; tôi đã đứng trước phiến đá khắc câu nói ấy ở New York và nghĩ về sự kết tinh văn hóa nhân loại trong Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngay hai câu trong "Tuyên ngôn Độc lập" 2/9/1945 của Bác, được trích từ tuyên ngôn của hai nước Pháp Mỹ nhưng sự vận dụng sáng tạo của Hồ Chủ tịch chính là câu: “Suy rộng ra, tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do".
Nhân nói về mục tiêu do Đại hội Đảng VIII đề ra: Dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng, văn minh, tôi nhớ phải tranh luận 10 năm mới đưa được “dân chủ” lên trên “công bằng” chứ có được ngay đâu.
Trong mục tiêu, cái quan trọng nhất là dân chủ, công bằng; vì quốc gia nào mà không muốn dân giàu nước mạnh, còn văn minh thì càng là nhẽ đương nhiên.
Mười năm trước chúng ta hay nói “Nhân dân lao động làm chủ”, nói như thế là không phải toàn bộ nhân dân, nói như thế là có một bộ phận nhân dân sống ngay trên quê hương mình mà không được làm chủ.
Để bỏ được "lao động" trong câu ấy tính ra mất đúng 10 năm, bây giờ chỉ còn là nhân dân làm chủ. Mò mẫm thì vất vả thế đấy, nhưng chân lý cứ sáng tỏ dần"...
Vâng, ông Hữu Thọ đã từ công chúng vì yêu mà đến với cách mạng, trên ngạch quan lộ, ông đã ở một từng bậc rất cao, nhưng rồi, với bản tính hiếu học, chịu học, ông dân trở thành người của công chúng - như ông vẫn xuất hiện trên VTV trong các chương trình như thế.
Đó là nhân cách của ông, một nhân cách lớn.
Với riêng tôi, trong giờ phút này, xin được bày tỏ lòng biết ơn ông. Chuyện là tôi được mời viết hồi ký cho một nhân vật lịch sử. May là, khi còn làm tài liệu, tôi có hỏi ông về người ấy.
Ông nói ngay: Chớ chớ, nhân vật này lớn lắm, nhưng dở cũng nhiều. Đụng đến cái dở thì chưa được, lại chỉ được nói cái hay. In ra thế rồi ra sẽ mang tiếng với lịch sử.
Đó là bài học cuối cùng tôi học được từ ông, học ở nhân cách nhiều hơn là kinh nghiệm nghề nghiệp.