Qua đó, tạo ra cảnh quan tươi mát giữa mùa khô, góp phần giải quyết tình trạng thiếu nước những tháng cao điểm.
Theo các vị à cha và phật tử cao niên, hồ nước của chùa gắn với tập quán sinh hoạt cộng đồng, bởi các lễ hội đều tập trung về chùa, điều cần đầu tiên vẫn là nước đảm bảo vệ sinh và trữ lượng đủ dùng cả năm.
Nhiều năm nay, hồ nước các chùa Krăng Krốch (xã Châu Lăng), Sà Lôn (xã Lương Phi), Rô và Cô Đơn (xã An Cư), Mỹ Á (xã Núi Voi)… của huyện Tri Tôn luôn được cộng đồng quan tâm. Đặc biệt, hồ nước chùa Krăng Krốch cung cấp nước cho cả người Kinh và đồng bào Khmer khu vực Rò Leng, Mằng Rò.
Sãi cả Chau Vanh (chùa Krăng Krốch) cho biết, nhờ diện tích hồ lớn và nước chứa nhiều, bà con thiếu hụt cứ gánh và chở về xài thoải mái. “Bây giờ, tuy có nước máy, nhưng nhà chùa tiếp tục bảo quản, trồng sen lọc nước. Cao điểm mùa khô, nước máy bị gián đoạn, bà con vẫn có nước sinh hoạt”, sãi cả Chau Vanh nói.
Đối với phum Cô Đơn (ấp Soài Chếk, xã An Cư, huyện Tịnh Biên) là địa bàn hẻo lánh, xa xôi. Anh Chau Pho La (cư dân sở tại) kể, hồ nước chùa Cô Đơn đã được nạo vét và nâng cấp khối lượng dự trữ, nhờ vậy hàng chục hộ đồng bào Khmer hiện sử dụng tới 3 nguồn nước là giếng xây, hồ chùa và trạm cung cấp.
“Nhờ vậy, đồng bào Khmer hổng còn sợ bị gián đoạn nước, thiếu nước sinh hoạt trầm trọng như trước kia”, anh La tỏ ra phấn khởi. Trong chùa Cô Đơn còn có giếng khoan và bơm bằng mô-tơ điện, khi lễ hội lớn cũng không thiếu nước.
Các ngành chuyên môn tỉnh An Giang cho rằng, những hồ của chùa Khmer đã góp phần quan trọng trong việc cung cấp nước sinh hoạt cho hộ riêng lẻ, gia đình sống xa cụm, tuyến dân cư. Đặc biệt, nước hồ của chùa Khmer còn bổ sung cho mùa khô, khi hạn hán gay gắt.
Trong số 60 ngôi chùa Khmer ở các huyện Tri Tôn và Tịnh Biên, hồ chứa nước đã được nạo vét, cải tạo, tu sửa và nâng cấp hiện đang sử dụng thì hồ chùa Mỹ Á (xã Núi Voi, huyện Tịnh Biên) có diện tích lớn nhất và trữ lượng nước nhiều nhất.