"Nợ Trường Sơn" - tập thơ thứ tư của ông ra mắt bạn đọc với 76 bài thơ, mạch cảm xúc chủ đạo là chiến tranh - một món nợ với Trường Sơn theo đúng ý nghĩa nhan đề của tập.
Đọc "Nợ Trường Sơn" ta thấy những bài lục bát tiêu biểu, sở trường, mang phong cách của Phạm Văn Đoan, như: "Dặn vợ đi chợ Tết", "Chợ tình em đến", "Thèm lén", "Trú mưa", "Tiếp bạn", "Ngày xưa", "Khủng khỉnh hội tình"…
Điều ấn tượng là viết về chiến tranh, về những người bên kia chiến tuyến, Phạm Văn Đoan có cái nhìn khá mới, lạ. Ông không căm phẫn hay lên án, cũng không bài xích như quan điểm một thời; ngược lại, tác giả đồng cảm sẻ chia với những thân phận con người cùng trong vòng xoáy của lịch sử. Trớ trêu số phận đã sắp đặt Phạm Văn Đoan cùng đồng đội của ông với những người lính cùng chung dòng máu một dân tộc Việt Nam trở thành đối đầu hai bờ chiến tuyến. Ở một đất nước mà suốt ba mươi năm cầm súng trong nỗi đau chia cắt hai miền, ai cũng hiểu rằng, trên chiến trường, chỉ cần gặp một đụng độ nhau, một bên sẽ xanh cỏ và kên kia đỏ ngực.
Phạm Văn Đoan có cái nhìn công bằng hơn với những người bên phía chiến bại. Kết thúc chiến tranh, về với đời thường, họ đã trở thành bạn văn của nhau. Đại từ “ông giặc” mà Phạm Văn Đoan gọi người một thời bên kia chiến tuyến mới hóm làm sao:
Anh là giặc trong tôi
Tôi là giặc trong anh
Giặc ở trong nhau hai thằng dân cùng một nước
Thượng đế sinh ra tôi và anh
Không phải để tìm nhau mà diệt
Máu xương đổ suốt một thời oanh liệt
Bây giờ kể ra chuyện thật cứ như đùa.
...
Tất cả như nhau
Ta cùng cảnh ngộ
Rợn tiếng cười gằn. Tiếng thủy tinh vỡ.
*
Rượu đã tràn rồi còn chờ gì nữa
Uống đi kìa
Ông giặc của tôi ơi!
(Tôi và anh)
"Nợ Trường Sơn" là món nợ của cả dân tộc, của cả đất nước này với Trường Sơn. Ai đã từng trận mạc, cận kề sống chết như ông, sẽ hiểu, trân trọng hơn cái giá của hòa bình, sự khổ đau của mất mát chia ly do chiến tranh mang lại nhưng không phải ai cũng có thể làm được như Phạm Văn Đoan.