| Hotline: 0983.970.780

N.ưu 69, vụ mùa không có “đối thủ”?

Thứ Sáu 21/10/2011 , 11:21 (GMT+7)

Giống N.ưu 69 sinh trưởng, phát triển mạnh, chống chịu sâu bệnh tốt, kháng được bạc lá vụ mùa, lá đòng bền, cây cân đối, bông to, hạt chắc trên bông nhiều...

Vụ mùa 2011, Trung tâm Khảo nghiệm-Khuyến nông-khuyến ngư (KNKN) tỉnh Thái Bình phối hợp với Cty CP Giống cây trồng miền Bắc xây dựng mô hình trình diễn 1 ha giống lúa lai N.ưu 69 trên chân đất 2 vụ lúa tại HTXNN Đông Hải (Quỳnh Phụ, Thái Bình).

Theo ông Nguyễn Như Niên, Giám đốc TT Khảo nghiệm, KNKN Thái Bình, vụ mùa năm nay thời vụ cấy muộn hơn mọi năm từ 10-15 ngày, đất làm xổi. Tuy nhiên đầu vụ nhiệt độ, lượng mưa rất thuận lợi cho cây lúa sinh trưởng, phát triển, do vậy hiện tượng lúa bị nghẹt rễ ít xảy ra, cây phát triển mạnh như lúa xuân. Nhưng đến giai đoạn trỗ gặp điều kiện bất thuận, từ 8-14/9 và tiếp đến là 18-20/9 mưa kéo dài, sau đó là cơn bão số 5 đã làm một số giống bị bạc lá…

Thế nhưng tại điểm gieo cấy N.ưu 69 cho thấy giống này có khả năng sinh trưởng, phát triển mạnh, chống chịu sâu bệnh tốt, đặc biệt kháng được bạc lá vụ mùa, lá đòng bền, cây cân đối, bông to, hạt chắc trên bông nhiều, TGST ngắn, ít mẫn cảm với thời tiết, năng suất qua các vụ khảo nghiệm, trình diễn đều ổn định.

“Chúng tôi bố trí gieo cấy ở chân ruộng trũng, chua phèn nặng nhưng giống N.ưu 69 tỏ ra chống chịu rất tốt. Trong khi các giống xung quanh nhiễm nặng bạc lá thì N.ưu 69 hầu như không nhiễm, sạch bệnh, ước đạt 70 tạ/ha, cao hơn giống đối chứng 18 tạ/ha và đạt năng suất cao nhất trong các giống khảo nghiệm. Mô hình thâm canh giống N.ưu 69 vụ mùa quả là tuyệt vời”, vẫn theo ông Niên.

Cũng theo ông Niên, năm tới Trung tâm Khảo nghiệm, KNKN sẽ tiếp tục xây dựng điểm trình diễn giống này trên chân đất khác, tại điểm giữa 2 huyện ven biển là Thái Thụy và Tiền Hải để đánh giá phạm vi thích ứng của giống. Từ đó hoàn thiện quy trình thâm canh, khuyến cáo nông dân áp dụng. Đồng thời đề nghị tỉnh đưa giống N.ưu 69 vào cơ cấu giống lúa lai ở cả 2 vụ.

Tại điểm trình diễn mô hình N.ưu 69, ông Nguyễn Tiến Duật, xã viên HTXNN Đông Hải hồ hởi nói: “Qua 3 vụ gieo cấy giống N.ưu 69 vụ nào cũng được mùa. Vụ này thời tiết bất thuận, các giống đều năng suất kém, bình quân chỉ 120 kg/sào nhưng giống N.ưu 69 đạt gấp đôi, khoảng 250 kg/sào. Qua nhiều năm trồng lúa tôi thấy chưa “anh” nào năng suất như giống này. Nói thật đến giờ chưa có “đối thủ” lúa lai nào “địch” nổi”.

Còn ông Hoàng Phó Tế, Chủ nhiệm HTXNN Đông Hải đánh giá: “N.ưu 69 có đặc điểm là rất cứng cây nên chống đổ tốt, chỉ cấy 1 dảnh nhưng đẻ khỏe, trung bình 7-8 bông/khóm. Vụ xuân các giống đều phải phun phòng đạo ôn 4-5 lần nhưng N.ưu 69 không phải phun. Vụ mùa các giống đều nhiễm bạc lá nhưng lá lúa N.ưu 69 vẫn xanh đến cuối vụ. Thời điểm này thóc thịt N.ưu 69 đang được giá (7.500 đồng/kg), sản phẩm làm ra đến đâu tiêu thụ hết đến đó. Làng làm bánh đa ở xã bên thu mua cả chục tấn/ngày nên chúng tôi yên tâm về đầu ra. Bà con trong xã đang rất tin tưởng giống lúa này, đề nghị Cty chuẩn bị tốt việc cung ứng giống để bà con gieo cấy trong vụ xuân tới”.

“Giống lúa lai N.ưu 69 là sản phẩm độc quyền phân phối của Cty CP Giống cây trồng miền Bắc. TGST của giống từ 130-132 ngày (vụ xuân) và 110-115 ngày (vụ mùa). Sinh trưởng tốt, đẻ nhánh khoẻ, gọn, khả năng thích ứng rộng, chống chịu sâu bệnh khá, đặc biệt là bệnh bạc lá trong vụ mùa. Trỗ bông tập trung, độ thoát cổ bông tốt. Giống còn có khả năng chống chịu rét, chống đổ tốt, rất thích hợp gieo cấy trên chân đất từ vàn thấp đến cao; năng suất cao, ổn định”, ông Lê Đăng Khoa, GĐ Cty CP Giống cây trồng miền Bắc.

Ông Trần Xuân Định, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Thái Bình khẳng định, thực tế SX cho thấy N.ưu 69 là giống chịu thâm canh, có thể gieo cấy được trên các vùng sinh thái khác nhau kể cả trên những vùng chua trũng. Hơn nữa sức chống chịu về nhiệt độ cao và hạn đều tốt hơn một số giống lúa lai đang được gieo cấy phổ biến, đặc biệt vụ mùa kháng bạc lá rất tốt. Ngoài ra N.ưu 69 có chất lượng cơm phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, so với Nhị ưu 838, N.ưu 69 được đánh giá là giống có chất lượng cơm ngon hơn một cách rõ rệt…

“Thái Bình đang “bí” cơ cấu lúa lai, đặc biệt là lúa lai trong vụ mùa. Nhiều giống lúa lai đã đưa vào khảo nghiệm vụ mùa đều nhiễm bạc lá, năng suất thấp. N.ưu 69 là giống điển hình cho năng suất cao, không bị bạc lá. Nhằm tăng sản lượng lương thực, chúng tôi sẽ cơ cấu giống này vào SX cả 2 vụ”, ông Định ghi nhận.

Xem thêm
Một con bò có thể tạo ra 2 tỷ điểm dữ liệu trong suốt cuộc đời

Theo các chuyên gia ngành chăn nuôi Mỹ, ứng dụng công nghệ gen đóng vai trò quan trọng trong nhân giống bò sữa, giúp tối đa hóa tiến bộ di truyền.

Truy tố những trường hợp để chó, mèo gây hậu quả nghiêm trọng

Đắk Lắk sẽ điều tra, truy tố, xử lý nghiêm những trường hợp không tuân thủ quy định trong việc nuôi, quản lý chó, mèo để xảy ra hậu quả nghiêm trọng.

Quy hoạch vùng trồng hoa hồng lớn nhất tỉnh Kon Tum

Làng tái định cư Tu Thó (xã Tê Xăng, huyện Tu Mơ Rông) được quy hoạch xây dựng thành vùng trồng hoa hồng Bulgaria lớn nhất Kon Tum.

Đốt rơm rạ là... đốt tiền

ĐỒNG THÁP Chưa khi nào nông dân thấy giá trị của rơm rạ như bây giờ, thu hoạch xong không đốt bỏ mà bán cho hợp tác xã, xử lý thành các sản phẩm đa dụng...

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm