| Hotline: 0983.970.780

Phát động giảm lượng giống gieo sạ vùng ĐBSCL

Thứ Năm 25/02/2016 , 07:15 (GMT+7)

Vừa qua, tại Hậu Giang, Bộ NN-PTNT phối hợp với UBND tỉnh Hậu Giang tổ chức hội nghị về chuyển đổi cơ cấu cây trồng ứng phó với biến đổi khí hậu./ Tiết kiệm 4.500 tỷ đồng từ giảm lượng giống gieo sạ

Thay mặt lãnh đạo Bộ NN-PTNT, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh đã phát động Chương trình "Giảm lượng hạt giống lúa gieo sạ tại các tỉnh ĐBSCL giai đoạn 2016-2020".

ĐBSCL là vùng trồng lúa trọng điểm của nước ta, hàng năm với diện tích gieo cấy lúa trên 4 triệu ha chiếm khoảng 55% diện tích gieo cấy lúa của cả nước, sản lượng đạt từ 25 - 26 triệu tấn (chiếm gần 60% sản lượng lúa cả nước).

Đây cũng là vùng cung cấp chủ yếu lượng gạo xuất khẩu của nước ta (hàng năm ĐBSCL cung cấp khoảng 90% lượng gạo xuất khẩu). Do vậy SX lúa gạo vùng ĐBSCL có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực trong nước, đồng thời cung cấp lượng gạo xuất khẩu...

Năm 2015 tổng diện tích gieo cấy toàn vùng đạt 4,3 triệu ha, tăng khoảng 470 nghìn ha so với năm 2005. Năng suất lúa trung bình của toàn vùng liên tục tăng do áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới về giống, giải pháp kỹ thuật về phân bón, thuốc BVTV, hệ thống tưới tiêu được cải thiện (năm 2015 năng suất lúa trung bình đạt 59,7 tạ/ha, tăng 9,3 tạ/ha so với năm 2005).

Sản lượng lúa năm 2015 của toàn vùng ước đạt 25,7 triệu tấn, tăng khoảng 6,4 triệu tấn so với năm 2005 đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực trong nước và tăng lượng gạo xuất khẩu. Thu nhập của người trồng lúa ngày càng được cải thiện.

Mặc dù đạt được những thành tựu to lớn nhưng ngành lúa gạo vùng ĐBSCL còn nhiều hạn chế cần phải giải quyết.

Về chủ quan, quy mô SX lúa nhỏ, chuỗi giá trị qua nhiều trung gian, thiếu liên kết, chi phí SX còn cao, tỷ lệ thất thoát cao, chế biến chưa tối ưu, ảnh hưởng đến thu nhập của nông dân trồng lúa, chất lượng gạo và khả năng cạnh tranh của ngành lúa gạo Việt Nam.

Đặc biệt lượng giống gieo sạ của các tỉnh vùng ĐBSCL còn quá cao, trung bình lượng hạt giống gieo sạ khoảng 150 kg/ha, một số địa phương vẫn còn sử dụng đến 200kg hạt giống lúa/ha. Trong khi đó lượng giống gieo sạ trung bình tại các tỉnh phía Bắc khoảng 40kg/ha, một số địa phương chỉ sử dụng khoảng 30kg hạt giống/ha.

Lượng giống gieo sạ trung bình của toàn vùng còn rất cao là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ sử dụng giống lúa có phẩm cấp (xác nhận) trong vùng ĐBSCL thấp hơn so với tỷ lệ trung bình của cả nước.

Về khách quan, bao gồm vấn đề cạnh tranh nguồn lực với các ngành sản xuất nông nghiệp, phi nông nghiệp khác, thị trường lúa gạo quốc tế cạnh tranh với sự tham gia của nhiều nhà xuất khẩu, tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu.

Chất lượng hạt giống lúa, cơ cấu giống, kỹ thuật canh tác sẽ tác động đến chất lượng lúa gạo. Thói quen canh tác dựa vào kinh nghiệm, sử dụng quá nhiều lượng giống dẫn đến sử dụng quá nhiều phân bón, thuốc sâu đang hạn chế chất lượng gạo trong tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.

Tiến bộ kỹ thuật "3 giảm 3 tăng", "1 phải 5 giảm" đã chỉ rõ giảm lượng giống gieo sạ không những vẫn đảm bảo tăng năng suất lúa mà còn tiết kiệm được các chi phí đầu tư và đã được nhiều nông dân hưởng ứng thực hiện có hiệu quả. 

Nếu toàn vùng đến năm 2020 giảm lượng giống gieo sạ trung bình còn 80kg/ha (theo định hướng tái cơ cấu ngành lúa gạo) sẽ tiết kiệm được khoảng 300 nghìn tấn hạt giống lúa (tương đương với 4.500 tỷ đồng). Đây cũng là khâu đặc biệt quan trọng trong việc giảm chi phí đầu vào trong SX lúa gạo, đồng thời làm cơ sở cho việc giảm các phí khác như thuốc BVTV, phân bón góp phần tăng hiệu quả sản xuất và tăng thu nhập của người trồng lúa.

CHƯƠNG TRÌNH CỤ THỂ

Nhằm đẩy nhanh việc giảm lượng hạt giống gieo sạ/ha trong canh tác lúa, Bộ NN-PTNT phát động chương trình giảm lượng hạt giống lúa gieo sạ/ha. Cụ thể như sau:

1. Mục tiêu:

1.1. Mục tiêu chung

a) Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước, người SX lúa về giảm khối lượng hạt giống gieo sạ/ha trong canh tác lúa ở ĐBSCL;

b) Tăng cường thực hiện các giải pháp kỹ thuật giảm khối lượng giống gieo sạ xuống còn 80kg/ha vào năm 2020, đồng thời quản lý và sử dụng giống lúa chất lượng cao cấp xác nhận tăng từ khoảng 40% lên trên 75% diện tích gieo trồng mỗi vụ;

c) Góp phần tái cơ cấu về giống lúa trong SX lúa hàng hóa xuất khẩu ở ĐBSCL.

1.2. Mục tiêu cụ thể

a) Mục tiêu đến 2016:

- Có 13 tỉnh, thành phố hoàn thành triển khai chương trình giảm khối lượng hạt giống gieo sạ/ha trong canh tác lúa; 

- Có 13 tỉnh, thành phố có lượng hạt giống gieo sạ từ 80 - 100 kg/ha đạt trên 30% diện tích canh tác. Trong đó có 7 tỉnh, thành phố có khối lượng hạt giống gieo sạ từ 80 - 100kg/ha đạt trên 50% diện tích canh tác.

b) Mục tiêu đến 2017: Có 13 tỉnh, thành phố có lượng hạt giống gieo sạ từ 80 - 100kg/ha đạt trên 50% diện tích canh tác. Trong đó: 7 tỉnh, thành phố có khối lượng hạt giống gieo sạ từ 80-100kg/ha đạt trên 70% diện tích canh tác.

c) Mục tiêu đến 2018:

Có 13 tỉnh, thành phố có lượng hạt giống gieo sạ từ 80 - 90kg/ha đạt trên 70% diện tích canh tác. Trong đó 8 tỉnh, thành phố có khối lượng hạt giống gieo sạ từ 80 - 90kg/ha đạt trên 90% diện tích canh tác.

d) Mục tiêu đến 2019: Có 13 tỉnh, thành phố có lượng hạt giống gieo sạ từ 80 - 90kg/ha đạt trên 85% diện tích canh tác. Trong đó 8 tỉnh, thành phố có khối lượng hạt giống gieo sạ từ 80 - 90 kg/ha đạt trên 90% diện tích canh tác.

dongduchnh9011130659122128100

đ) Mục tiêu đến 2020: Có 13 tỉnh, thành phố có lượng hạt giống gieo sạ trung bình 80kg/ha.

2. Nội dung chương trình

2.1. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền

Huy động các phương tiện thông tin, tuyên truyền của trung ương, địa phương, phối hợp các tổ chức đoàn thể để đẩy mạnh công tác tuyên truyền. Cụ thể như sau:

a) Thông tin tuyên truyền, tổ chức thực hiện tốt chỉ thị 4864/CT-BNN-TT ngày 19/6/2015 của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT về việc tăng sử dụng giống lúa chất lượng cao, hạt giống xác nhận và giảm lượng hạt giống gieo sạ tại các tỉnh Nam bộ.

b) Thông tin về quy trình canh tác "3 giảm, 3 tăng"; "1 phải 5 giảm", quy trình SRI và các kết quả mô hình về giảm lượng hạt giống gieo sạ trên ha có hiệu quả.

c) Tăng cường tổ chức các hội thảo, hội nghị giới thiệu các mô hình, biểu dương kịp thời các gương điển hình giảm lượng hạt giống gieo sạ/ha trong canh tác lúa.

2.2. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về SX, kinh doanh giống lúa các cấp

a) Tập trung chỉ đạo cơ cấu giống lúa trong từng vụ SX; xây dựng bộ giống lúa xuất khẩu dựa trên tiêu chí chất lượng, điều tra diện tích phát triển trong năm qua và khả năng mở rộng diện tích, ổn định vùng nguyên liệu trong thời gian tới, tỉnh cần chọn 3 - 5 giống lúa chất lượng cao hiện đang SX với diện tích lớn trong tỉnh hoặc đề xuất 3 - 5 giống lúa tỉnh chọn làm bộ giống để xây dựng kế hoạch cung ứng giống lúa cho từng vụ, từng vùng.

b) Sở NN-PTNT lập kế hoạch SX và cung ứng giống theo từng vụ, từng năm và theo dõi SX và chủ động phân phối giống lúa mới cho nông dân để dần đi vào ổn định cơ cấu giống.

c) Viện Nghiên cứu lúa ĐBSCL  tăng cường SX và quản lý giống lúa siêu nguyên chủng thuộc dự án “Phát triển giống lúa xuất khẩu vùng ĐBSCL” và các giống lúa chủ lực trong vùng phục vụ SX. Sở NN-PTNT cần phối hợp, đặt hàng và hợp đồng với Viện lúa ĐBSCL về số lượng và chủng loại giống lúa cấp siêu nguyên chủng phù hợp với tỉnh theo từng vụ, từng năm để chủ động trong việc sản xuất giống nguyên chủng và xác nhận cung cấp cho địa phương.

d) Tăng cường kiểm soát và quản lý chặt chẽ SX, kinh doanh giống lúa trong địa bàn là cơ sở cho công tác chỉ đạo SX lúa được ổn định.

2.3. Tăng cường công tác khuyến nông

Đẩy mạnh áp dụng quy trình canh tác "3 giảm, 3 tăng"; "1 phải 5 giảm", quy trình SRI và các kết quả về giảm khối lượng hạt giống gieo sạ trên ha.

a) Ưu tiên xây dựng các mô hình trình diễn kỹ thuật canh tác theo quy trình canh tác mới, quy trình SRI và các kết quả về giảm lượng hạt giống gieo sạ trên ha, các mô hình SX lúa trong dự án chuyển đổi nông nghiệp bền vững (dự án VnSAT) tại một số tỉnh vùng ĐBSCL. Trong đó tập trung mô hình giảm lượng hạt giống trong từng tỉnh, mở rộng quy mô theo từng vụ SX lúa và từng vùng.

b) Tăng cường tập huấn, đào đạo, xây dựng các mô hình về giảm lượng hạt giống trong từng vụ, từng tỉnh và trong quy mô toàn vùng.

c) Đẩy mạnh việc nghiên cứu và áp dụng các giải pháp tổng hợp trong SX để phát huy tối đa giảm khối lượng hạt giống gieo sạ trên ha.

Các hộ gia đình, tổ hợp tác, hợp tác xã, các đơn vị tham gia chỉ đạo, thực hiện giảm lượng hạt giống lúa gieo sạ có hiệu quả với quy mô lớn, có sức ảnh hưởng đến phong trào giảm lượng giống gieo sạ của Bộ NN-PTNT đã đề ra.

Bộ NN-PTNT tặng cờ thi đua xuất sắc của Bộ cho các địa phương, đơn vị dẫn đầu; Tặng bằng khen của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố; tặng giấy khen của Sở NN-PTNT, Chủ tịch UBND huyện, thị xã cho tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc.

Thời gian thực hiện từ tháng 1/2016 - 31/12/2020.

Định kỳ hàng vụ, năm, tổ chức họp sơ kết và báo cáo kết quả thực hiện về Bộ NN-PTNT.

Tổ chức hội nghị sơ kết vào các năm 2016, 2017, 2018, 2019 và tổng kết phong trào thi đua vào năm 2020.

Đề xuất khen thưởng hàng vụ, hàng năm đến các đơn vị liên quan trình tổng hợp, xem xét đề xuất các hình thức khen thưởng.

Cục Trồng trọt chủ trì, phối hợp với đơn vị liên quan chuẩn bị nội dung tổ chức lễ phát động; xây dựng và ban hành tiêu chí chấm điểm thi đua; theo dõi, đôn đốc quá trình tổ chức thực hiện; tổng hợp đánh giá kết quả thực hiện; chuẩn bị tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết phong trào thi đua.

Cục BVTV, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, các đơn vị thuộc Bộ có trách nhiệm tham gia tích cực cuộc phát động và hoàn thành tốt các nhiệm vụ theo lĩnh vực được phân công.

Sở NN-PTNT các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề xuất, tham mưu với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố đẩy mạnh phong trào thi đua tại địa phương; hàng năm tổ chức sơ kết, rút kinh nghiệm, tổng hợp, báo cáo kết quả thực hiện, đề xuất các hình thức khen thưởng về UBND tỉnh, thành phố, Bộ NN-PTNT.

(Theo Trung tâm KNQG)

Xem thêm
Một con bò có thể tạo ra 2 tỷ điểm dữ liệu trong suốt cuộc đời

Theo các chuyên gia ngành chăn nuôi Mỹ, ứng dụng công nghệ gen đóng vai trò quan trọng trong nhân giống bò sữa, giúp tối đa hóa tiến bộ di truyền.

Truy tố những trường hợp để chó, mèo gây hậu quả nghiêm trọng

Đắk Lắk sẽ điều tra, truy tố, xử lý nghiêm những trường hợp không tuân thủ quy định trong việc nuôi, quản lý chó, mèo để xảy ra hậu quả nghiêm trọng.

Lúa đông xuân sớm được mùa, nông dân lãi 20 triệu đồng/ha

QUẢNG BÌNH Các diện tích lúa đông xuân sớm tại Quảng Bình hiện đã thu hoạch, năng suất bình quân khoảng 65 tạ/ha, nông dân lãi hơn 20 triệu đồng/ha…

Đốt rơm rạ là... đốt tiền

ĐỒNG THÁP Chưa khi nào nông dân thấy giá trị của rơm rạ như bây giờ, thu hoạch xong không đốt bỏ mà bán cho hợp tác xã, xử lý thành các sản phẩm đa dụng...

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm