| Hotline: 0983.970.780

Phòng chống rầy nâu, VL-LXL: Đã thành công nhưng vẫn cảnh giác

Thứ Hai 12/03/2012 , 10:00 (GMT+7)

Tại TP HCM, Bộ NN-PTNT đã tổ chức Hội nghị Quốc gia phòng chống rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá trên lúa.

Ngày 9/3, tại TP HCM, Bộ NN-PTNT đã tổ chức Hội nghị Quốc gia phòng chống rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá trên lúa. Theo đó, Hội nghị tập trung đánh giá lại công tác phòng chống dịch bệnh 5 năm qua (2006-2011) và phòng chống dịch bệnh từ nay đến 2015.

Nên học Việt Nam

Đó lời của TS K.L. Heong (Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế - IRRI). Theo TS Heong, so với các nước trong khu vực cũng đã và đang bị rầy nâu, VL, LXL gây hại như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia…, Việt Nam đang là nước thành công nhất trong việc khống chế dịch bệnh này. Việt Nam đã chọn con đường đúng là giảm sự lạm dụng thuốc BVTV, do đó hạn chế được tối đa diện tích lúa bị cháy rầy. Trong khi đó, ở các nước trên, người ta vẫn coi việc dùng thật nhiều thuốc BVTV là phương cách tốt nhất để phòng trừ rầy nâu, VL, LXL, nên dịch bệnh không những chưa được khống chế mà đang ngày càng bùng phát mạnh mẽ hơn. Ở Trung Quốc, mỗi năm có khoảng 1 triệu ha bị thiệt hại. Ở Thái Lan, mật độ rầy nâu hiện đã tăng 100 ngàn lần so với năm 2009. Do đó, mỗi khi đến các nước Thái Lan, Indonesia…, TS Heong đều đưa ra lời khuyên là nên học cách phòng chống rầy nâu, VL, LXL của Việt Nam.

Phun thuốc trừ rầy ở ĐBSCL

Việc giảm sự lạm dụng thuốc BVTV trong phòng trừ rầy nâu, VL, LXL ở các tỉnh phía Nam được thể hiện khá rõ qua lượng thuốc đã sử dụng trong những năm cao điểm. Theo TS Nguyễn Hữu Huân, Phó Cục trưởng Cục BVTV, trong các năm từ 2006 đến 2009, tổng diện tích lúa được phun trừ rầy tập trung là 2.174.626 ha, với tổng lượng thuốc chống dịch đã cấp phát từ nguồn Chính phủ là 562,6 tấn. Tính ra lượng thuốc phun trên 1 ha là 0,26 kg, thấp hơn mức khuyến cáo là 3 kg. Có được kết quả này là do toàn vùng ĐBSCL đã áp dụng thành công trên diện rộng các biện pháp tổng hợp khác như sử dụng giống xác nhận, gieo sạ đồng loạt né rầy, “3 giảm, 3 tăng”, “1 phải, 5 giảm”, nấm xanh, nấm trắng, rút gọn thời vụ gieo trồng, đảm bảo thời gian cách ly, giãn vụ… theo chỉ đạo chung của Bộ NN-PTNT.

Cũng theo ông Huân, trong 5 năm qua, nhiều mô hình phòng chống rầy nâu, VL, LXL rất có hiệu quả đã được xây dựng. Điển hình như: mô hình cộng đồng quản lý tổng hợp rầy nâu, VL, LXL tại 7 tỉnh, TP ở ĐBSCL do FAO tài trợ; nhân rộng mô hình trình diễn của FAO với tên gọi “Cộng đồng quản lý rầy nâu, bệnh VL, LXL” bằng phương pháp xuống giống tập trung, đồng loạt theo lịch né rầy, ứng dụng “3 giảm, 3 tăng”, tại Tiền Giang, Bến Tre, Long An, Đồng Tháp, Kiên Giang, An Giang, Vĩnh Long…; mô hình sử dụng hóa chất BVTV để xử lý giống và phun định kỳ trừ rầy di trú đầu vụ tại ấp 4 (xã Mỹ Phú, Thủ Thừa, Long An) và huyện Ba Tri, Bến Tre; mô hình xuống giống tập trung, đồng loạt theo lịch né rầy, dâng nước ngập thân lúa mới sạ để che chắn không cho rầy di trú gây hại ở xã Thuận Hưng (huyện Thốt Nốt, Cần Thơ) và ấp Thới Bình (thị trấn Cờ Đỏ, huyện Cờ Đỏ, Cần Thơ); mô hình gieo mạ che chắn lưới, đánh giá hiệu quả thuốc xử lý hạt giống, thuốc sinh học trừ rầy nâu trên lúa mùa đặc sản, đánh giá tuyển chọn các giống lúa chống chịu rầy nâu, VL, LXL của Viện lúa ĐBSCL; mô hình phòng trừ rầy nâu bằng thuốc sinh học trên lúa mùa cao sản của Sở NN-PTNT Sóc Trăng; mô hình “1 phải, 5 giảm” ở An Giang; mô hình “công nghệ sinh thái” ở Cái Bè và Cai Lậy của Tiền Giang và An Giang…

Sự thành công của Việt Nam sau 5 năm phòng chống dịch bệnh rầy nâu, VL, LXL (2006-2011) được thể hiện rõ nét nhất qua việc diện tích lúa nhiễm VL, LXL đã giảm rất mạnh. Năm 2006, tổng diện tích lúa nhiễm VL, LXL ở các tỉnh phía Nam lên tới trên 175 ngàn ha (chiếm 4,18% diện tích gieo sạ), trong đó có gần 100 ngàn ha nhiễm nặng và trên 25 ngàn ha phải tiêu hủy. Từ năm 2007 đến 2010, diện tích nhiễm VL, LXL liên tục giảm xuống: năm 2007 có 75.248 ha nhiễm (19.610 ha nhiễm nặng), năm 2008 có 17.516 ha nhiễm (8.704 ha nặng), năm 2009 có 2.489 ha nhiễm (757 ha nặng), năm 2010 chỉ có 525,5 ha nhiễm (119,4 ha nặng). Đến năm 2011, diện tích nhiễm bệnh tăng mạnh so với 2009 và 2010 nhưng chỉ ở mức trên 11 ngàn ha, chủ yếu là do nông dân nôn nóng xuống giống lúa xuân hè quá sớm đúng vào lúc rầy di trú với mật số cao. Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Bùi Bá Bổng khẳng định: “Việt Nam đã thoát được đại dịch rầy nâu, VL, LXL, qua đó góp phần quan trọng vào việc tăng thêm bình quân khoảng 1 triệu tấn lúa mỗi năm trong 5 năm qua”.

Phải quản lý tốt rầy nâu

Tuy đã khống chế khá tốt dịch bệnh rầy nâu, VL, LXL, nhưng trong những năm tới, Việt Nam vẫn cần phải đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với dịch bệnh này. Bởi theo TS Heong, các nước xung quanh đang tiềm ẩn nguy cơ bùng phát đại dịch. Ở Thái Lan, dự báo trong năm nay sẽ có một trận dịch rầy nâu rất lớn. Ở Trung Quốc, rầy nâu vẫn đang tiếp tục hoành hành trên diện rộng. Bởi vậy, TS Nguyễn Hữu Huân cho rằng, Việt Nam đang bị bao vây tứ phía bởi dịch rầy nâu từ Trung Quốc, Thái Lan và các nước khác.

Trong đó, Thái Lan và Indonesia đang có hiện tượng lúa bị cháy rầy trên diện rộng. Rầy từ những nước này hoàn toàn có thể theo gió để vào nước ta. Trong khi đó, hiện nay, ở các tỉnh phía Nam, vẫn còn tới 72% lượng lúa giống chưa phải là giống xác nhận, hầu hết các giống lúa ở miền Bắc đều bị nhiễm rầy, ở phía Nam mới có khoảng 30% giống hơi kháng rầy…, tức là nguy cơ nhiễm bệnh vẫn rất lớn.

Theo Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Bùi Bá Bổng, chúng ta đã làm tốt công tác phòng chống rầy nâu di trú bằng các biện pháp như bố trí lại mùa vụ, gieo sạ đồng loạt né rầy…, do đó đã tạo nên 1 đổi thay lớn trong sản xuất lúa ở ĐBSCL. Tuy nhiên việc quản lý rầy tại chỗ vẫn chưa tốt. Bằng chứng diện tích nhiễm rầy hàng năm vẫn còn khá cao, trên 250 ngàn ha. Nguyên nhân là do nhiều nông dân vẫn lạm dụng thuốc BVTV vì chưa được tư vấn đúng hoặc bị ảnh hưởng bởi các đại lý thuốc BVTV. Nông dân vẫn sử dụng dư thừa lượng phân đạm, hạt giống. Giống lúa kháng rầy vẫn đang được cải thiện rất chậm.

Hàng năm chúng ta cho ra nhiều giống lúa nhưng mới nặng về số lượng mà chưa đạt về chất lượng (chẳng hạn tính đa dạng di truyền của các giống lúa rất kém). Do đó, trong thời gian tới, mục tiêu của cả ngành nông nghiệp là phải quản lý rầy tại chỗ sao cho hiệu quả hơn, đồng thời quản lý rầy lưu trú cũng phải làm tốt hơn trước thông qua các giải pháp như hoàn thiện mùa vụ, gieo sạ đồng loạt né rầy, quản lý toàn diện chuỗi sản xuất lúa theo hướng hiện đại, bền vững.

Xem thêm
Một con bò có thể tạo ra 2 tỷ điểm dữ liệu trong suốt cuộc đời

Theo các chuyên gia ngành chăn nuôi Mỹ, ứng dụng công nghệ gen đóng vai trò quan trọng trong nhân giống bò sữa, giúp tối đa hóa tiến bộ di truyền.

Truy tố những trường hợp để chó, mèo gây hậu quả nghiêm trọng

Đắk Lắk sẽ điều tra, truy tố, xử lý nghiêm những trường hợp không tuân thủ quy định trong việc nuôi, quản lý chó, mèo để xảy ra hậu quả nghiêm trọng.

Đốt rơm rạ là... đốt tiền

ĐỒNG THÁP Chưa khi nào nông dân thấy giá trị của rơm rạ như bây giờ, thu hoạch xong không đốt bỏ mà bán cho hợp tác xã, xử lý thành các sản phẩm đa dụng...

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm