| Hotline: 0983.970.780

Sản xuất chè an toàn: Đòi hỏi cấp thiết

Thứ Tư 19/08/2015 , 06:40 (GMT+7)

Nhằm tạo ra cơ chế vận hành, thống nhất các giải pháp để tổ chức sản xuất và chế biến chè an toàn, ngày 19/8, tại Thái Nguyên, Bộ NN-PTNT đã tổ chức hội nghị phát triển sản xuất chè an toàn

14-26-51_img_0179

Hội nghị có sự tham dự của lãnh đạo một số cục, vụ, viện của Bộ NN-PTNT; đại diện 31 tỉnh, thành sản xuất chè, các doanh nghiệp, HTX trồng chè. Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát chủ trì hội nghị.

Báo động

Phát biểu khai mạc hội nghị, Bộ trưởng Cao Đức Phát cho biết, Việt Nam đứng thứ 5 trên thế giới về sản lượng xuất khẩu chè nhưng chỉ đạt 3,5 - 4 điểm trên thang điểm 10 của thế giới về chất lượng chè xuất khẩu.

Trong thời gian qua, Bộ NN-PTNT, các đơn vị trực thuộc Bộ, các địa phương đã nỗ lực để cải thiện tình hình song việc đảm bảo an toàn VSTP đối với sản phẩm chè vẫn chưa được cải thiện nhiều.

Vì vậy, khẩn trương chấn chỉnh, tổ chức lại sản xuất chè theo hướng an toàn là đòi hỏi cấp thiết để tạo uy tín, nâng cao giá trị, thu nhập cho người làm chè.

Kết quả điều tra của Cục BVTV năm 2012 cho thấy, diện tích sản xuất chè theo hướng an toàn chỉ chiếm 3% tổng diện tích chè toàn quốc. Các hộ nông dân sản xuất chè sử dụng tới 81 loại thuốc thuộc 53 hoạt chất để phun trừ sâu bệnh trên chè.

Trong đó, có 37 hoạt chất không nằm trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng (chiếm 69%). Thực tế sử dụng thuốc BVTV, có 49% nông dân phun nồng độ cao hơn hướng dẫn; 64% phun hỗn hợp 2 loại thuốc và 14% phun hỗn hợp 3 loại thuốc. Gần 50% nông dân phun trên 7 lần/vụ, có nhiều hộ phun tới 4 lần/tháng.

Trong khi đó, số lượng cán bộ được biên chế làm công tác thanh tra, kiểm tra thuốc BVTV rất hạn chế. Trung bình mỗi cán bộ phải quản lý trên 70 cửa hàng.

Từ thực tế trên, PGS.TS Nguyễn Xuân Hồng, Cục trưởng Cục BVTV, cho rằng, các loại sâu bệnh trên chè không phải là khó phòng trừ. Người làm chè chỉ cần sử dụng thuốc BVTV khi nào thật cần thiết và phải sử dụng với nguyên tắc "4 đúng".

Vì vậy, việc sử dụng thuốc BVTV đáp ứng yêu cầu đảm bảo ATTP trên sản phẩm chè không phải là vấn đề kỹ thuật mà là việc tổ chức lại sản xuất. Người làm chè là thành viên của doanh nghiệp, HTX, các tổ chức thì mới có thể giám sát cộng đồng và đồng loạt thực hiện đảm bảo ATTP được.

Theo số liệu của Cục Trồng trọt, có các tổ chức chứng nhận VietGAP đã cấp giấy cho 197 cơ sở sản xuất chè với diện tích 9.300 ha.

Tuy nhiên, việc tổ chức sản xuất chè an toàn vẫn chưa gắn giữa chế biến với sản xuất nguyên liệu, nhiều cơ sở không có vùng nguyên liệu; giá cả thu mua không hợp lý nên không khuyến khích người sản xuất coi trọng chất lượng nguyên liệu.

Cùng với đó, kỹ thuật sản xuất, tổ chức sản xuất chè an toàn chưa có nguồn kinh phí riêng để thực hiện. Lãnh đạo Cục Trồng trọt đã đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất chè an toàn trong thời gian tới như quy hoạch sản xuất chế biến chè phải gắn với quy hoạch vùng sản xuất chè an toàn; đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, quản lý Nhà nước về sản xuất và chế biến…

Ông Hoàng Văn Dũng, Phó GĐ Sở NN-PTNT Thái Nguyên cho biết, sản xuất, chế biến sản phẩm chè tại Thái Nguyên đang theo hướng tích cực: Tăng về diện tích, năng suất, sản lượng trong khi đó chất lượng và giá trị cũng ngày càng tăng cao.

Rõ ràng giải pháp tập trung phát triển vùng nguyên liệu chè búp tươi chất lượng cao theo hướng cung cấp nguyên liệu chè xanh chất lượng đang phát huy hiệu quả và sẽ là giải pháp kinh tế kỹ thuật mang tính cốt lõi trong sản xuất chè an toàn.

14-26-51_img_0037
Phát triển chè an toàn đang là đòi hỏi tất yếu và cấp thiết

Báo cáo của Sở NN-PTNT Lâm Đồng - vựa chè của cả nước nhận định, việc xây dựng những cánh đồng chè mẫu lớn sẽ là giải pháp tốt nhằm kiểm soát tốt chất lượng nguyên liệu từ sản xuất, sơ chế, chế biến đến tiêu thụ. Qua đó, đảm bảo tính tự giác của mối quan hệ tam giác giữa người sản xuất, người phân phối và người tiêu dùng.

Tổ chức lại sản xuất

Phát biểu kết luận hội nghị, Bộ trưởng Cao Đức Phát cho rằng, các cơ quan, đơn vị, các tổ chức và người làm chè đã đưa ra nhiều giải pháp để chấn chỉnh và cải thiện tình hình đảm bảo ATTP trên sản phẩm chè. Mỗi ngành, mỗi địa phương đều có cách làm đặc trưng.

Tuy nhiên, giải pháp quan trọng nhất phải tập trung chỉ đạo, gấp rút thực hiện là hướng dẫn và hỗ trợ nhân dân tổ chức lại sản xuất. Cụ thể là hình thành các tổ hợp tác, HTX hoặc liên doanh, liên kết, phối hợp với các doanh nghiệp, các tổ chức… Mặt khác, tất cả những hình thức tổ chức sản xuất trên đều phải vận hành kỹ thuật sản xuất theo quy trình thực hành nông nghiệp tốt, VietGAP, GlobalGAP, UTZ, ISO…

Nhằm đảm bảo cho giải pháp trên thực thi, Bộ trưởng yêu cầu các cơ quan trực thuộc Bộ và các địa phương phải nghiên cứu để sớm đưa ra được hệ thống chính sách mạnh mẽ, đủ sức nặng.

Theo Bộ trưởng, giải pháp nói trên đi kèm với hệ thống cơ chế chính sách cần triển khai càng nhanh càng tốt, nhằm khẩn trương nâng cao chất lượng, giá trị của sản phẩm chè cũng như thu nhập cho người làm chè.

Xem thêm
Đưa tư duy thị trường vào phát triển khoa học - công nghệ trong nông nghiệp

Chiều 19/4, Bộ NN-PTNT phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức Hội nghị trao đổi về nội dung phối hợp hoạt động khoa học - công nghệ (KHCN) giữa hai bộ.

Việt Nam hỗ trợ đưa nông nghiệp trở thành trụ cột kinh tế ở Venezuela

Bộ Nông nghiệp Venezuela đánh giá cao kết quả tốt vượt mong đợi về hợp tác nông nghiệp song phương, ngay cả trong điều kiện Venezuela vô cùng khó khăn.

Du khách ở TP.HCM sắp được trải nghiệm xe điện

TP.HCM Sẽ có 70 xe điện được đưa vào phục vụ khách. Thời gian hoạt động từ 6-24 giờ hằng ngày, thí điểm trong 2 năm (từ quý II/2024 đến hết năm 2025).

Bắc Kạn lại hứng chịu mưa lớn kèm gió lốc gây nhiều thiệt hại

Khi người dân đang tập trung khắc phục hậu quả dông lốc thì đêm qua, rạng sáng nay (20/4) tiếp tục xảy ra mưa lớn kèm gió lốc gây thiệt hại ở nhiều nơi.

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm