| Hotline: 0983.970.780

Thị trấn nông nổi của kẻ lạc bầy

Chủ Nhật 17/04/2016 , 08:04 (GMT+7)

Khói sương như không muốn rời khỏi Dran. Hẳn đây là những dải lụa trời rồi. Nó cứ quần quanh thung lũng, kéo nhau lê thê từ đỉnh cao sườn bắc Trạm Hành vòng theo cánh cung sườn núi xuống đầu đèo Sông Pha, qua suối Cát, vắt các cánh rừng gần Lạc Lâm, rồi va vào sườn nam Trạm Hành. Dran thành thung lũng chứa sương.

Trong mây

Những sườn núi kia rõ là thành vách sương mù. Dưới chân đập Danhim là một phố thị, và làng vườn. Nghĩa là phố nằm dưới tấm lụa trời đó.

Tôi cứ ngồi nhìn khói sương như thế này, như bao năm qua. Dran nghĩa khí, nó không biết có kẻ giang hồ bụi đời đây hay nghiêng mình dưới sự mơ hồ đó.

Tôi cần Dran thanh tẩy, tôi cần Dran dạy dỗ cho rằng trần gian này thơ mộng vẫn chưa kết thúc, cuộc đời luôn đáng sống. Tôi đang tâm thế “Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua”.

Mười bảy tuổi Dran chào đón tôi bằng đường ống dẫn nước nhuộm vàng bằng ánh sáng điện trong đêm khuya của đường ống dẫn nước dài thê lê năm kilômét nằm ngửa trên sườn núi Sông Pha của công trình thủy điện Đanhim, với đỉnh núi là thị trấn Dran, khi tôi từ hướng Ninh Thuận nóng cháy lên cao nguyên Langbian lạnh. Ói mửa mặt xanh, kiệt sức, nằm bệt trên chuyến xe tốc hành xa lạ, mà tôi vẫn gắng gượng dậy để thưởng thức cảnh sắc đó.

Rồi tôi sống với những mùa Tết đứng chơi vơi trên đỉnh đèo Sông Pha để nhìn xuống Ninh Thuận yêu thương. Đến lượt những mùa mưa bão gầm thét, từ Đà Lạt chạy về đây trong đêm khuya để giáp mặt với bão, chứng kiến phong ba cuồng nộ từ biển Đông dội vào núi, tường thuật về thiên tai; nghe thấy cả thị trấn câm nín, chịu trận, nhà bay lả tả còn vườn hồng thì tơi bời xác xanh.

Tôi vượt đèo Sông Pha lên với Dran và Đà Lạt, là để kiếm chút tri thức, mưu sinh, chứ không phải vì gió mây sương khói, mộng huyền như ai thi nhân lạc lối đâu đó. Nhưng từ món quà thị giác đầu tiên cho đến thành chốn an trú với những ngày yên lành có bao “Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua”, tôi không hiểu được là duyên hay nợ với Dran.

Nó ra đời trước Đà Lạt, là “trạm”, là điểm đặt nền móng mở đường khám phá, ra đời, và xây dựng nên Đà Lạt, từ tháng năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Người Việt sống cùng người Churu.

Tất nhiên người Churu ở cuối các con phố, chỗ có rừng. Giờ nó vẫn dăm ba tuyến phố như buổi nào. Nhà cửa vẫn khiêm tốn, không có công trình cao tầng nào, nét xưa vẫn tỏa ra. Những tên tiếng Pháp đó đây vẫn còn gọi, những Osari, Lachaisai, Aviat, Bellevue, Labuye...

Và đôi ba con đường từ hồi Pháp đó vẫn còn dùng, mặt đường trơ ra sỏi đá khi đã sạch nhựa đường từ lâu. “Phố” ở Dran rất thơ dại, nhỏ bé và trong sáng. Ba con phố chính thôi, để từ đó tẻ ra chừng chục hẻm, luồn, mà cuối những hẻm luồn là gặp lơghim, cây hồng - vườn. Còn cư dân cứ hiền hậu, mộc mạc, đơn giản, sâu sắc, vẫn chất dân nông lồng vào chút chút “phố thị”.

c-pho-thi-drnh-nguyen-hng-tinh08570962

Chính xác hơn, họ không rõ nông dân mà cũng không rõ thị dân. Xe cộ để an nhiên trước nhà không quá lo về an ninh, trộm cướp như nhiều nơi khác. Ở đây bán buôn không có nói thách, nói sao bán vậy. Ở đây ai cũng có vườn, cho dù buôn bán, trồng Lơghim, hay hồng, dứa.

Thời gian ở đây như đứng lại. Nó vẫn cổ xưa như lịch sử của nó. Tôi không thể lý giải vì sao nó có thể trong sáng, an lành, chịu đựng, bình tâm gần như tuyệt đối giữa thời buổi nhốn nháo và hiện đại này. Nó cứ như là trường hợp ngoại lệ của lịch sử.

Sự tồn tại của nó có gì đó cứ là ngoại cuộc với những xáo động của lịch sử, thời gian,“là chính mình”, vững chãi, hoặc là bên lề, bị “bỏ rơi”, mắc kẹt. Cái vị trí đỉnh đèo, nơi để “bước qua”, nhưng là “chân” của cao nguyên Langbian, nên nó rất chơi vơi, không vai trò - “địa kinh tế”, tự nhiên khiến nó thành thế.

Nó là nơi đón gió biển, và bão tố từ biển lên cao nguyên. Nghĩa là nó cũng là nơi đón mây duyên hải. Đứng dưới đồng bằng Ninh Thuận bao la kia nhìn ngược lên bao giờ cũng thấy mây phủ đỉnh đèo Krông Pa (Sông Pha). Dran đúng nghĩa thị trấn nằm trong mây. Bè bạn bảo tôi là kẻ “sống” trên mây, thì xem ra họ không quá đáng. Nhưng chính xác nhất thì tôi chỉ là kẻ “tị nạn” trong mây. Chính cư dân Dran mới đích thực vẹn toàn với sự “trong mây” ấy.

Sự êm ái, mát lành của Dran có gì đó phiêu lãng, mang hồn của biển cùng lúc hồn của núi, của nước mạch khe sâu, thảo mộc, rừng. Cái duyên hải kia đã bị “bản địa hóa”, “Dran hóa”. Như thứ tiếng Việt của họ, người Dran, là một thứ giọng riêng, không phải giọng Đà Lạt, Phan Rang, Bảo Lộc, Ninh Sơn, hay Tùng Nghĩa.

Giọng của họ hơi nghiên về hướng Ninh Thuận, chừng sáu phần rưỡi Ninh Thuận và ba phần rưỡi Lâm Đồng. Dưới chân đèo Sông Pha, là thị trấn Ninh Sơn - của Ninh Thuận”, trên chút là Trạm Hành - của Đà Lạt, và Thạnh Mỹ - của Đơn Dương, nhưng mọi thứ tinh thần ở Dran không hề thuộc những nơi đó.

Lên khỏi đèo Krông Pa, đi chưa hết 10 phút chiều dài, gặp tiếp con đèo khác, đèo Dran - để lên Đà Lạt. Dran tồn tại ở không gian địa lý như vậy đó. Dran ạ, mi khác biệt, và là chốn xứ dành riêng cho những người sống bằng tâm hồn, hay bị Thượng đế “lưu đày” vậy!?

Trong mộng

Nợ nần quá nhiều với nó nên lâu ngày tự dưng tôi hòa vào nó. Còn người chưa hòa vào nó như ông thầy dạy toán ở thị trấn Tùng Nghĩa Tôn Thất Lê Nguyên hay tâm tình rằng một ngày nào đó ông phải đến đó để ngủ một đêm, dù nó cách Tùng Nghĩa độ hai chục kilômét theo đường chim bay, cùng thuộc Lâm Đồng. Lê Vĩnh Tài, thi sĩ xứ Buôn Ma Thuột, cũng bày tỏ vậy vào một lần tôi đưa cậu ngang qua Dran để xuống Phan Rang. Trong lòng người Thầy giáo và ông Thi sĩ đương thời kia, “Dran nhỏ mà lạ quá. Muốn được “sống” với nó thật”.

Đến giờ mà bạn bè tôi còn thế, huống gì ông Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Nguyễn Đức Sơn, Hồ Thụy Mỹ Hạnh, Nguyễn Dương Quang, Phạm Cao Hoàng, Nguyễn Đạt,...

Hình như sự lạc loài của Dran lay động được những kẻ đa mang, nhạy cảm, và nông nổi. Nghĩa là khi tôi được tham dự vào “tiệc” gió mây của Dran, thì những kẻ lỡ thời, lạc vận, thiếu hiện sinh, hay bóng bẩy hơn cứ cho họ là tao nhân mặc khách, quái kiệt đã “hòa” vào nó từ lâu lắm rồi.

Họ là những kẻ “phát hiện” ra một Dran “Thi địa”, Dran - miền mơ tưởng. Hay nói đúng hơn họ bị gió mây Dran lưu đày trước kẻ hậu sanh này ra đời.

Ông Đinh Cường, cả một thời trẻ trai, giai đoạn quan trọng nhất không ai ở Dran biết ông là họa sĩ. Ông tự biết mình, với những chuyến xe ngựa ra “phố” để lấy họa liệu gửi từ Sài Gòn lên. Là kẻ gầy nhom ngoài 20 tuổi hay đi trong lòng Dran, tay cầm một can dầu về rửa cọ, và tay kia là nhánh chuối Laba, mớ rau, mớ cá, bịch muối.

Ông lạc đến đây, rồi sống trong một căn chòi gỗ ở thôn trang Lạc Lâm hút sâu bên trong và trao đổi chất với Dran bằng những lúc ra “phố”, mà phố kia chính là những dãy “Thị” thơ dại đến ngày hôm nay.

Những năm đầu 1960 thế kỷ trước ấy, Dran đã ở tuyệt đỉnh của cô liêu. Ngay tiếng xe ngựa nơi đây cũng ám ảnh văn nhân. Người họa sĩ trẻ cô đơn lạc loài đã vẽ trong không gian mơ hồ của Dran.

g-nguoi-drnnh-nguyen-hng-tinh1085711282

Ông vẽ thủng sương mù, vẽ lạc trong mây, vẽ sâu trong cô tịch, vẽ nát nỗi buồn tủi, vẽ mòn mỏi mơ mộng, vẽ tanh bành cái nghèo, vẽ tưng bừng cái cô đơn, vẽ như leo núi để tự cứu rỗi cái tuổi trẻ khủng hoảng cả mình giữa cõi người loạn ly. Càng vẽ càng chìm sâu trong cái đẹp, ký ức, khói mây, mảnh đất, người đời, bạn hữu, cỏ cây. Và vẽ thế đến giờ, sau 50 năm, vẽ vọng về từ nước Mỹ. Ông bảo tôi thời tươi đẹp nhất của ông là thời lưu lạc cô đơn ở Dran, không tí tiếng tăm.

Rồi ông Trịnh Công Sơn cũng thế. Ông nhạc sĩ tài danh của quốc gia này đã viết nhiều ca khúc tuyệt diệu mà ở đó có bóng dáng của khói sương, núi đồi phiêu lãng Dran, rộng hơn chính cái hồn núi rừng Dran đã quyện vào với hồn B’lao trog nhiều ca khúc của ông. Thứ hơi thở “Về trên phố cao nguyên ngồi/ Tiếng gà trưa gáy khan bên đồi” (trong bài “Lời thiên thu gọi” của ông) đó mà.

Cũng chính Dran, ông Trịnh Công Sơn đã viết những lá thư yêu đương - mà nay người ta đã công bố và xuất bản thành sách, viết cho mỹ nữ Ngô Vũ Dao Ánh - người con gái đi nhiều vào nhạc ông. Cái bưu cục nhỏ bé kia cũng lặng lẽ, chỉ có điều nó vẫn đưa tới nơi những bức thư tình tuyệt cảm của người nghệ sĩ lớn ra bên “ngoài cuộc đời” kia, thoát khỏi vòng hư ảo của chốn xứ.

Trong một lá thư cho nàng từ Dran, Trịnh Công Sơn viết: “Anh còn quà gì quí báu để cho Ánh ngoài những bụi bặm, mùi cỏ hoang, hoa dại suốt những miền anh đã đi qua...”.,.

Thậm chí tâm hồn người nghệ sĩ bay lên mơ ước giản đơn đẹp đến độ: “Có lẽ anh sẽ kiếm một số tiền kha khá để lên đây hùn làm rẫy, và bỏ những ngày công chức ở đó (tức B’lao - NHT) đi... Anh sẽ sống cho mòn đời anh đi... Anh sẽ sống tự do nằm rũ và...”.

Rồi lần khác: “...Bây giờ rừng núi đã dậy cùng với anh... Có lẽ rồi anh cũng kiếm cách về đây, làm đồn điền... Làm một căn nhà sàn với bàn ghế bằng những gốc thông ghép lại, sống rất gần với gỗ với cây với núi rừng với đất...”. Dran là nơi chứng minh tình bạn tuyệt đẹp, trong vắt, nghĩa khí, thậm tình của danh họa Đinh Cường và người nhạc sĩ tài ba họ Trịnh này.

Những lúc nhớ bạn, Trịnh Công Sơn đón xe đò để từ B’lao - nơi ông đang dạy tiểu học - lên thăm bạn trên căn chòi gỗ hoang vu. Có hôm khi người nhạc sĩ chui vào căn nhà gỗ thì ngài họa sĩ kia đã theo ngựa xuống “phố”. Cuối năm 2013, ông Đinh Cường từ Mỹ về VN, trở lại thăm Dran, và lặng người khi đứng trước nó. Giờ thì ông họa sĩ tài danh cũng mất rồi, tít Viginia nước Mỹ. Chỉ những bức tranh ông ở lại đó đây, và không hẳn người Dran nào từng xem thấy tranh ông.

Nhưng ở Dran này, thượng thừa hơn là ông thi sĩ Nguyễn Đức Sơn. Ông ta thăng hoa thơ phú, lấy luôn bút danh “Sao Trên Rừng” khi sống ở đây. Rồi viết: “Buồn sao như là héo hon/ Đồi nghe ú ở hãy còn sơ khai/ Nghe đời đau quặn trong thai/ Tiếng ru chan chứa đêm dài còn mang”.

Và đáng ghét đến... dễ thương làm sao, khi trong dân gian nơi này còn lưu truyền hư thực tâm hồn nông nổi thi nhân, mà những năm sống ở đây, lúc lưu trú nhờ nhà người họ hàng bên Má; nhưng bỗng một hôm si tình cô em gái, rồi yêu nàng. Mối tình đã làm bà Dì và ông dượng tá hỏa, nổi giận, la mắng. Buồn đời, ngài thi sĩ bỏ đi hoang, đi biền biệt từ đó. Với tôi, thơ lẫn còn người ông Nguyễn Đức Sơn là không hay, nhưng sự “sống tự nhiên”, nông nổi của ông là hay, như trường hợp nông nổi này.

Còn bao nhiều con người thầm lặng, văn nhân khác nữa từng bị “dính” khói mây Dran mà ta sao biết được.

Trong đời

Toàn bộ phố thị Dran nằm gọn dưới đập thủy điện Da Nhim, ngay cạnh chân đập. Khi khói sương trùm lên phần “thị” của Dran là nó trùm lên hồ nước mênh mông với bên trên là rừng thông che chở đó. Cả thế giới này không có thị trấn nào tồn tại kỳ lạ như thế chứ đừng nói trên lãnh thổ VN.

Ngay sát chân đập, người dân với nhà cửa, vườn tược sinh sống tự nhiên. Họ nhìn lên đập như nhìn một “tác phẩm” nghệ thuật chứ không như một “quả bom nước”. Thủy điện Danhim là công trình thủy điện mà Nhật Bản xây dựng như một nghĩa cử hối lỗi, gọi là “bồi thường chiến tranh” cho giai đoạn Nhật Bản chiếm cứ ngắn VN trước đó.

f-mot-cn-nh-o-drnnh-nguyen-hng-tinh08571079
Một căn nhà ở Dran

Nó cũng là thủy điện lớn đầu tiên trên lãnh thổ VN. Người Dran còn nhớ những năm cuối 50 đầu 60 thế kỷ trước đó, Dran trở thành công trường lặng lẽ cho một công trình chưa từng thấy, với những cư xá, chợ búa, rạp cinema cho công nhân, chuyên gia thủy điện người Nhật.

Hồ thủy điện Danhim được hình thành từ việc ngăn dòng sông mang tên nước mắt Da Nhim (tiếng Churu bản địa) chảy từ đỉnh Hòn Giao nhìn xuống Khánh Hòa xa tít tụ về cùng dòng sông Labá chảy từ đỉnh Langbian của Đà Lạt ở chỗ nó gặp nhau là trên đỉnh đèo Krông Pa này.

Chính quyền trước di dời dân Dran đi, ở vùng tái định cư trong Ka Đô - cách đấy 18 cây số theo đường chim bay - khi làm thủy điện. Thế mà nhiều người trong họ vẫn quay về sống ở Dran, số khác sống cả hai nơi, vừa Ka Đô vừa Dran. Họ yêu tha thiết cái ốc đảo trong mây của họ.

Thập niên 90, có một kỳ mưa to gió bão, nước về nhiều, người ta xả đập, cả phố thị Dran chìm trong nước. Cư dân vẫn không ngán sợ, cứ sống. Vì thế mới hiểu, sao phố, làng, vườn, nhà chùa, nhà thờ, người... vẫn nay vẫn cứ hiện hữu ở Dran.

Chính quyền ta nay cũng từng cưỡng chế họ di dời, họ cứ ở, riết rồi thì cũng tự nhiên từ lúc nào chẳng hay theo lòng và niềm tin ở họ, đã cấp sổ đất, sổ nhà cho hết thảy nhà, vườn sống dưới chân đập.

Tôi hỏi người giáo viên về hưu Nguyễn Thị Bay: Không sợ đập nước sao? “Có chỗ nào dáng sống bằng chỗ này đâu mà phải đi. Đi rồi cũng quay vế thôi!”, bà tâm sự.

Tôi gặp ông Trần Văn Nên, một người từng tham gia xây đập Danhim từ ngày đầu đến khi hoàn thành, và hỏi tương tự? “Làm sao mà vỡ đập được mà lo. Người Nhật đã làm là không có cẩu thả. Đến đất xây đập người ta còn nghiên cứu, chọn thứ đất đảm bảo kết cấu nhất để chở về đây. Họ kỹ đến mức tôi càng thấy khó chịu!”, ông Nên bày tỏ.

Điều ông muốn kể là đến đất đổ đắp đập, người ta nhặt từng cây cỏ lẫn trong đất; cào lớp đất mặt đổ đi trước khi lấy những thớ đất sét bên dưới, để đưa về. Chính ông cũng từng chấp hành việc di dời vào đầu thập niên 60 ấy, rồi 1975 lại quay về ở ngay vị trí cũ, đất và nhà ngay dưới chân đập này. Như bao người dân Dran khác, gia đình ông sống giản dị, không ai giàu có của cải, với chút vườn lơghim, cây hồng ăn trái, thêm tí bán buôn hoặc làm nghề tự do các loại mà sống.

Nhưng ông bảo: “Đời thế đã ngon rồi!”. Cho dù xứ sở này, như thơ của người thầy giáo một thời lưu lạc đến Dran, Phạm Cao Hoàng: “Núi đụng trời anh đụng nỗi đìu hiu”, còn với người bạn thi nhân của tôi sinh ra ở nơi đây, Nguyễn Dương Quang, là: “Hồn hiu hắt bên sông buồn vắng nước”.

Không là thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ, tức chả dính gì đến văn nghệ, nhưng ông Nên nhận ra xứ mình: “Sơn thủy bao quanh làng mạc, phố thị. Suối “đi” trên đầu, và núi thì “đi” bên trên nữa, còn rừng thông thì nằm phơi mình trên núi đó!”. Nghĩa rằng, người Dran họ có kiểu hạnh phúc của họ. Tôi không biết, có phải sự thơ mộng của nơi chốn, khói mây kia có góp phần hình thành nên phẩm chất thiện, lành của con người.

Dran à, mi có thật mà như ảo, gần mà xa ngát, mi mang một nỗi buồn sang vô định!

(KTGĐ số 14)

Xem thêm
Biến phụ phẩm nông nghiệp thành nguồn thức ăn chăn nuôi chính

Thay đổi thói quen canh tác, nhiều nông dân ở huyện Phú Thiện (tỉnh Gia Lai) đã biến những phế phẩm nông nghiệp sau thu hoạch thành thức ăn chăn nuôi cho hiệu quả cao.

Tiêm vacxin bao vây ngăn bệnh viêm da nổi cục lây lan

Quảng Bình Chi cục Chăn nuôi và Thú y Quảng Bình đang tập trung chỉ đạo các địa phương tăng cường tiêm vacxin, ngăn chặn bệnh viêm da nổi cục trên đàn bò lây lan.

Xây dựng dữ liệu số phục vụ quản lý sản xuất lúa

Ngày 22/4, Cục Trồng trọt phối hợp cùng IRRI tổ chức hội thảo tham vấn, đánh giá và xây dựng hệ sinh thái dữ liệu số phục vụ quản lý sản xuất lúa hiệu quả.