| Hotline: 0983.970.780

Thị trường đang cần gì ở tôm Việt?

Thứ Hai 27/07/2020 , 08:49 (GMT+7)

Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, thời gian qua, cả doanh nghiệp và người dân nuôi tôm đều gặp rất nhiều khó khăn.

Khu phức hợp sản xuất tôm chất lượng cao của Tập đoàn Việt - Úc đạt chuẩn cơ sở an toàn dịch bệnh theo khuyến cáo của Tổ chức Thú y Thế giới (OIE).

Khu phức hợp sản xuất tôm chất lượng cao của Tập đoàn Việt - Úc đạt chuẩn cơ sở an toàn dịch bệnh theo khuyến cáo của Tổ chức Thú y Thế giới (OIE).

Đến nay, thị trường xuất khẩu tôm đã có những chuyển biến tích cực, giá tôm nguyên liệu cũng dần tăng trở lại.

Tuy giá tôm chưa được như kỳ vọng nhưng đây là những tín hiệu tốt giúp ngành nuôi, chế biến và xuất khẩu tôm dần ổn định trở lại và phát triển trong thời gian tới. Điều cần quan tâm lúc này, đó chính là đảm bảo tôm chế biến đáp ứng các tiêu chí, nhu cầu của các thị trường xuất khẩu trọng điểm như Mỹ, Nhật, Trung Quốc, EU…

Một vài thị trường truyền thống của tôm Việt Nam đang hồi phục và đẩy mạnh nhập tôm trở lại. Nhưng xu hướng tiêu thụ tôm đã có những thay đổi. Điển hình như việc chuộng tôm size vừa và nhỏ 15g đến 20g/con (tương đương từ 60 đến 90 con/kg), mức giá vừa phải và dễ tiêu thụ tại các thị trường bán lẻ, siêu thị…

Còn với các size lớn tầm 30g đến 40g/con (tương đương 20 đến 40 con/kg), do ảnh hưởng dịch Covid-19 nên các nhà hàng, khách sạn đóng cửa, nhu cầu ăn tôm lớn và giá cao hơn bắt đầu giảm. Trong khi đó, tại nước ta, tâm lý của người nuôi là thích nuôi tôm lớn vì bán được số ký nhiều.

Vì vậy người nuôi cần cân nhắc vì tôm từ 60 con/kg nuôi đến 20 con/kg thì thời gian nuôi lâu hơn, tốn lượng thức ăn rất lớn, tốn công chăm sóc mà lại rủi ro. Nếu giá đầu ra giữa 60 con và 20 con không chênh lệch nhiều thì không cần thiết nuôi đến kích cỡ lớn.

Đồng thời, nếu nuôi tôm size vừa và nhỏ thì người nuôi có thể thu hoạch nhiều vụ trong năm hơn do vòng quay sản xuất ngắn, chỉ từ 60-80 ngày.

Hướng nuôi tôm đáp ứng các tiêu chuẩn xuất khẩu, với size vừa phải, giá bán hợp lý.

Hướng nuôi tôm đáp ứng các tiêu chuẩn xuất khẩu, với size vừa phải, giá bán hợp lý.

Đây là thời điểm mà chính quyền các địa phương, doanh nghiệp đầu ngành cần có sự định hình lại thị trường phù hợp khi một số quy trình nuôi đang hướng đến tôm kích cỡ lớn, dẫn đến chi phí cao, lợi nhuận thấp.

Do đó, người nuôi phải tính toán kỹ từ việc lựa chọn tôm giống đến quy trình nuôi, trong đó tôm giống chiếm hơn 50% cho việc quyết định thành bại một vụ nuôi.

Từ sau khi Nghị định 04/2020 của Chính phủ về việc kiểm soát chặt chẽ và mạnh tay hơn với nguồn giống trôi nổi trên thị trường có hiệu lực, thì cả doanh nghiệp và bà con nuôi tôm đều hướng đến việc sử dụng các thương hiệu tôm giống lớn, lâu năm, có uy tín.

Các thương hiệu sản xuất, kinh doanh tôm giống lớn có sự đảm bảo về nguồn gốc, chất lượng con giống, được xét nghiệm kỹ đảm bảo sạch bệnh 100%, tỷ lệ sống vượt trội, đồng thời số lượng mẫu nhiều, nuôi được mật độ dày, đáp ứng các kích cỡ theo nhu cầu thị trường…

Qua đó góp phần giúp người nuôi tôm tự tin hơn khi thả nuôi và có thể tính toán để đảm bảo nuôi với chi phí thấp.

Khu sản xuất giống chất lượng cao Việt - Úc đạt chứng nhận ASC, BAP, cơ sở an toàn dịch bệnh.

Khu sản xuất giống chất lượng cao Việt - Úc đạt chứng nhận ASC, BAP, cơ sở an toàn dịch bệnh.

Ngoài ra, người nuôi, doanh nghiệp ngành tôm cũng cần thường xuyên cập nhật một số bộ tiêu chuẩn gồm tiêu chuẩn “cần phải có” (còn gọi là tiêu chuẩn “cứng”) là độ tin cậy của vệ sinh an toàn thực phẩm được bảo đảm; chất lượng được bảo đảm (dinh dưỡng, màu sắc, kích cỡ, mùi, vị ) và xu hướng “muốn có” (còn gọi tiêu chuẩn “mềm”) là đạo đức, môi trường và phúc lợi xã hội (cộng đồng, người lao động…); truy xuất nguồn gốc, phát triển bền vững, bảo vệ động vật...

Các chứng nhận ASC, BAP, MSC, CoC… hiện nay chính là cơ sở để đánh giá rõ ràng nhất về hoạt động. Và một điều chắc chắn rằng thị trường nào cũng đều quan tâm, đó là sản phẩm không tồn dư lượng kháng sinh để đảm bảo không còn lô hàng bị trả về từ các thị trường nhập khẩu tôm.

Bên cạnh các tiêu chí trên, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 khiến xu hướng tiêu dùng và nhập khẩu thủy sản thay đổi chuyển hướng sang chuộng các sản phẩm thủy sản đóng hộp, sản phẩm đông lạnh, sản phẩm tiện dụng, dễ chế biến tại nhà hơn so với sử dụng thủy sản tươi sống…

Việt Nam hiện đang có lợi thế kiểm soát khá tốt tình hình dịch Covid-19, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh sau dịch. Trong khi đó các đối thủ là nguồn cung ứng tôm chính cho thế giới như Ấn Độ, Ecuador vẫn phải gồng mình chống chọi với đại dịch, mà chưa thể quay lại sản xuất kinh doanh, vì vậy đơn hàng sẽ chuyển sang Việt Nam nhiều hơn.

Đồng thời, Hiệp định EVFTA có hiệu lực sẽ giúp ngành tôm Việt cạnh tranh tốt hơn ở EU, cùng với đó là thuế xuất khẩu tôm vào thị trường Mỹ thấp cũng là một lợi thế cho xuất khẩu tôm sang thị trường này.

Với những lợi thế trên cùng với sự nắm bắt và đáp ứng đúng nhu cầu thị trường thì ngành tôm Việt Nam sẽ vươn mình mạnh mẽ và tăng tốc trong các tháng cuối năm nay để đạt mục tiêu 3,5 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu tôm cho một năm 2020 nhiều khó khăn.

Xem thêm
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung bị khiển trách

Ngày 19/4, ông Đào Ngọc Dung, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội bị Bộ Chính trị quyết định kỷ luật bằng hình thức Khiển trách.

Du khách ở TP.HCM sắp được trải nghiệm xe điện

TP.HCM Sẽ có 70 xe điện được đưa vào phục vụ khách. Thời gian hoạt động từ 6-24 giờ hằng ngày, thí điểm trong 2 năm (từ quý II/2024 đến hết năm 2025).

Sìn Hồ thiệt hại nhiều cao su do mưa đá, gió lốc

Mưa đá gió lốc đã khiến hàng nghìn cây cao su bị gãy đổ, hàng trăm hécta phải dừng khai thác, cạo mủ. 

Hai giám đốc sở chỉ đạo cứu lúa trên cánh đồng Mường Lò

Giám đốc hai Sở: NN-PTNT và Công thương tỉnh Yên Bái trực tiếp chỉ đạo chống hạn cho diện tích lúa tại cánh đồng Mường Lò (thị xã Nghĩa Lộ).

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm