Nằm trên độ cao hơn 2.000 m, thượng nguồn sông Gianh uốn lượn quanh dãy Giăng Màn hùng vĩ với những ngóc ngách của những ngọn núi đá vôi và rừng nguyên sinh. Đó cũng là nơi sinh sống của nhiều dân tộc, tồn tại nhiều phong tục bí ẩn, những câu chuyện rất khó để giải thích.
Tộc người sợ ma nhất thế gian
Khởi nguồn của sông Gianh hóa ra chỉ là khe nước nhỏ dưới chân đỉnh núi Cô Pi thuộc dãy Giăng Màn. Cạnh khe nước là thủ phủ của người Mày. Sẽ rất nhiều người cảm thấy rằng mình gan dạ nếu chứng kiến mức độ sợ ma của tộc người này.
Bi kịch, hủ tục cũng vì sợ ma
Thủ phủ của người Mày bây giờ nằm ở bản Ka Ai (xã Dân Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình), nhưng độ 10 năm trước cuộc sống của họ là "hong uông trì huồi", nơi theo tiếng địa phương nghĩa là khe nước rụng, điểm khởi nguồn của dòng sông một thời làm ranh giới phân cắt giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài. Khe nước rụng cách Ka Ai khoảng một ngày đi bộ. Những năm tháng sống ở nơi này, người Mày lấy phát rẫy, trồng lúa nương, trồng ngô, trồng sắn làm lương thực, lấy nghề đánh cá, săn chuột rừng làm thức ăn, tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài.
Năm 2002, chính quyền địa phương và bộ đội biên phòng vận động người Mày về định cư ở bản Ka Ai. 67 hộ, 319 nhân khẩu, 100% thuộc diện nghèo, đặc biệt khó khăn. Vậy mà những con số ấy không thể làm giảm đi một sự tự hào, đặc biệt là trong suy nghĩ của những người già: Theo tiếng dân tộc này, Mày có nghĩa là đầu con nước.
Người Mày tự hào vì họ là dân tộc sống cao nhất ở thượng nguồn sông Gianh. Họ tự ví mình như thủ lĩnh của dòng sông, mà đã là thủ lĩnh thì phải sống ở thượng nguồn mới xứng với vị thế. Có chăng, chỉ duy một điều có thể làm giảm đi sự tự hào có phần thái quá ấy là chuyện người Mày cực kỳ sợ hãi ma quỷ. Đã hơn 10 năm về bản mới nhưng quá khứ cô độc ở vùng rừng rú dường như vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức của tộc người chỉ có duy nhất họ Hồ này.
Người Mày ở bản Ka Ai
Người Mày sợ ma đến mức kỳ lạ. Thiếu tá Hoàng Văn Đỉnh, bộ đội biên phòng thuộc Đồn biên phòng Cha Lo, phụ trách bản Ka Ai xác nhận lời đồn đại về ma quỷ của người Mày. Họ sợ ma đến nỗi thiếu tá Đỉnh cũng phần nào ngần ngại khi nói về chuyện này sau 4 năm cắm bản. Còn trưởng bản Ka Ai Hồ Xuân Triêm liên tục rít thuốc và rùng mình mỗi khi nhắc đến từ ma hay người chết. “Người Mày không thờ người chết vì sợ ma, tồn tại những hủ tục rợn người cũng vì sợ ma”.
Bằng chứng xác thực đầu tiên là việc nghĩa địa mà người Mày gọi là bãi ma ở rất xa khu vực họ sống. Dân tộc này quan niệm, nếu người sống ở bên này dòng sông thì người chết phải ở bờ bên kia. Bãi ma vì thế cũng chất chứa nhiều sợ hãi. Đã đành bãi ma là nơi tập hợp phần mộ người chết, nhưng điều khiến nghĩa địa người Mày trở nên sợ hãi ở chỗ đó là nơi hoang lạnh, không hương khói, không bia mộ.
Theo phong tục của người Mày, người chết sau khi được chôn cất thì xem như đoạn tuyệt hẳn với người đang sống. Người trong gia đình chỉ chia cho người quá cố một ít gạo, một ít ngô, một chiếc nồi và đôi bát đũa, không hương khói, không thờ cũng gì cả. Thành thử, nếu có người đi rẫy, chẳng may lạc vào bãi ma cũng chẳng phân biệt được đâu là mộ của tổ tiên mình. Còn chuyện đào huyệt cho người này vướng phải hài cốt người kia không phải là chuyện hiếm bởi theo phong tục, mỗi khi có ma mới, người Mày chọn huyệt mộ bằng cách ném trứng gà. Chỗ nào quả trứng rơi xuống mà bị vỡ ắt chưa có con ma nào nằm.
Thiếu tá Đỉnh kể rằng, có những đám ma, nhiều thanh niên trai tráng hẳn hoi đi đào huyệt, đào đến nửa chừng thì bỏ chạy vì không chịu đựng được sự sợ hãi. Tất cả những người khác lấp đất xong là kéo nhau chạy theo đúng kiểu “chạy như ma đuổi”.
Trong bất cứ ngôi nhà nào của người Mày cũng có chỗ thờ ma. Đó là nơi không ai được phép xâm phạm, gọi là chỗ cấm, thờ ma xó. Như nhà trưởng bản Hồ Xuân Triêm, chỗ thờ ma xó nằm ở một góc khuất phía cuối căn buồng, được đánh dấu bằng một vài cành cây kiểu như vòng ngụy trang. Ông Triêm bảo rằng, nơi đó thờ ma chung, chẳng biết là ma xó là ma gì nhưng thiêng lắm, sợ lắm.
Từ những tháng năm đằng đẵng sống trong khe nước rụng, dân tộc Mày đã tồn tại một hủ tục vô cùng rùng rợn. Những đứa trẻ mới sinh ra nếu chẳng may mất mẹ thì chúng buộc phải chôn theo. Trưởng bản Ka Ai lý giải hủ tục rùng rợn ấy bằng cái lí lẽ vô cùng đơn giản: Phong tục mà, người Mày sợ ma nên nếu không “gửi” đứa trẻ cho mẹ nó thì kiểu gì bà mẹ cũng về đòi.
Người Mày, từ già đến trẻ đều sợ hãi mỗi khi nhắc đến ma quỷ
Cũng may, hủ tục ấy đã chấm dứt vào hai năm trước, khi tổ công tác của thiếu tá Đỉnh cứu được một đứa trẻ trước khi bị dân bản đem chôn. Đứa bé ấy bây giờ được đưa về Trung tâm Bảo trợ trẻ em SOS ở TP Đồng Hới. Nó tên là Hồ Dưỡng. Khi mẹ mình là chị Hồ Thị Lon bị băng huyết qua đời thì Dưỡng mới được vài ngày tuổi. Dân bản buộc Dưỡng vào cùng với chị Lon để đem chôn. Nhận được tin báo, tổ công tác có mặt kịp thời. Phải mất một năm sau, khi dân bản không thấy chị Lon về đòi con họ mới để yên.
Những bóng ma hiện hữu
Chuyện ma quỷ vô hình người Mày sợ đến khiếp vía, vậy mà những con “ma” đang hiện hữu, đang tồn tại trong cuộc sống thường ngày thì họ lại tiếp đón một cách hồn nhiên.
Hầu hết người Mày ở Ka Ai được sinh ra ở khe nước rụng đều không thể biết được tuổi tác của mình. Trưởng bản Hồ Xuân Triêm không biết được có thể còn dễ giải thích vì trông ông hơi già, đến như Bí thư chi bộ Hồ Hùng thì đúng là chuyện có một không hai. Tôi đồ rằng Hùng là Bí thư chi bộ trẻ nhất nước, bởi thẻ đảng viên của Hùng ghi rành rành sinh năm 1991.
22 tuổi, Hùng có thâm niên 4 năm làm trưởng bản trước khi được cất nhắc giữ chức Bí thư chi bộ bản Ka Ai. Mới 22 tuổi mà Hùng đã có 4 đứa con. Bí thư chi bộ mà vỡ kế hoạch, sinh đến đứa con thứ tư mà chẳng thấy kỷ luật gì cả. Mặc. Vợ chồng Hùng còn đẻ nữa. Thiếu tá Đỉnh khẳng định chắc nịch như vậy. Cơ sở ở chỗ tâm lý người Mày rất chuộng con trai. Cả bản chỉ có mỗi dòng họ Hồ nhưng trong suy nghĩ người dân tư tưởng dòng họ không phải là điều quan trọng. Phải đẻ con trai vì chỉ có con trai mới đủ sức đi rừng cả tuần lễ để săn bắn, một nghề kiếm sống gần như chiếm vai trò chủ lực của người Mày. Không chọn bầu Hùng làm Bí thư thì cũng chẳng thể tìm được ai đủ tiêu chuẩn hơn. Thì ra, cũng vì nghèo đói cả.
Nhát gan, lạc hậu, nhưng người Mày hút thuốc rất giỏi. Đàn ông hút thuốc đã đành, đàn bà, trẻ con cũng nghiện thuốc nốt. Thuốc của họ gọi là thuốc bọ. Nguyên liệu lấy từ cây thuốc lá tự trồng, đem cuốn với lá dong riềng thành một điếu to bằng cây nến. Sáng lên nương rẫy châm một điếu đến lúc mặt trời lặn vẫn thấy trên môi còn điếu thuốc. |
Tính bình quân, mỗi hộ dân ở bản Ka Ai hàng năm chỉ gieo trỉa được tầm chưa đầy 2 yến lúa giống. Gặp năm mưa không thuận, gió không hòa thì sau bữa mừng cơm mới sẽ hết gạo. Nếu được mùa ngô, mùa sắn thì ngào lên hai thứ đó lên ăn, còn không thì trông vào nguồn gạo trợ cấp. Những năm mới về định cư, gạo trợ cấp ăn quanh năm, đủ cả 12 tháng, nhưng dần dần dân bản chỉ chờ vào gạo trợ cấp nên Nhà nước giảm đi một nửa. Một năm 6 tháng, mỗi khẩu được nhận 90 kg.
Người Mày nói tiếng Kinh không sõi lắm, nhưng thấy người lạ là cứ kéo tay xin “đề xuất”. Hóa ra là họ đề xuất xin tăng gạo trợ cấp, vì 90 cân gạo nhiều khi không đưa được một hạt nào về nhà vì tư thương chặn ngay lúc phát để đòi phần những tháng ngày ăn gạo đong, gạo nợ. Đợt Tết vừa qua, mỗi khẩu được hỗ trợ thêm 4 kg, chẳng thấm tháp vào đâu.
Đã xác định vùng cao là đói nghèo, thất học nhưng tôi vẫn không khỏi chạnh lòng khi thấy thiếu tá Đỉnh chạy ngược chạy xuôi hỏi hết người này người khác rồi thông tin rằng bản Ka Ai chưa có đứa trẻ nào học quá lớp 5.
Bản ở xa, trường cấp 2 tận dưới Y Leng, cách gần chục cây số nên bọn trẻ muốn đến trường cũng khó. Học chữ khó khăn nhưng vào bản Ka Ai bất cứ ai cũng phải mắt tròn mắt dẹt về độ học đòi của đám trẻ. Đứa nào đứa nấy da đen nhẻm, áo quần cũng chẳng đủ mặc nhưng đầu tóc thì xanh xanh đỏ đỏ. “Thấy trên tivi có ai nhuộm màu gì thì bọn trẻ mua thuốc của mấy bà bán rong về tự nhuộm. Mốt gì cũng có”, thiếu tá Đỉnh nói giọng buồn buồn.