| Hotline: 0983.970.780

Trồng rừng gỗ lớn nâng cao giá trị rừng trồng

Thứ Tư 02/10/2019 , 08:40 (GMT+7)

Chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang rừng trồng gỗ lớn không chỉ mang lại giá trị kinh tế cao cho các hộ gia đình, mà còn hạn chế xói mòn, rửa trôi đất.

Hướng đi mới tái cơ cấu ngành lâm nghiệp

Hiệu quả kinh tế và môi trường của rừng gỗ lớn so với rừng gỗ nhỏ đã được khẳng định qua mô hình chuyển hóa rừng trồng rừng gỗ nhỏ sang rừng trồng gỗ lớn keo lai và keo tai tượng, do Tổng cục Lâm nghiệp chủ trì thực hiện trong giai đoạn từ năm 2014 - 2019.

14-10-31_nh_3_mo_hinh_trong_rung_go_lon_cu_cty_tnhh_mtv_lm_nghiep_yen_the_bc_ging_tc_gi_duong_di_tien
Mô hình trồng rừng gỗ lớn của Cty TNHH MTV Lâm nghiệp Yên Thế.

Năm 2014, cụm từ “Chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang rừng trồng gỗ lớn” lần đầu tiên được đưa ra tại Quyết định số 774/QĐ- BNN-TCLN ngày 18/4/2014 của Bộ NN- PTNT về việc phê duyệt kế hoạch hành động nâng cao năng suất và giá trị rừng trồng.

Theo đó trong giai đoạn từ năm 2014 - 2020 cả nước sẽ chuyển 110.000ha rừng trồng gỗ nhỏ sang rừng trồng gỗ lớn, với 2 loài cây chủ yếu là keo lai và keo tai tượng. Luật Lâm nghiệp năm 2017 khuyến khích các thành phần kinh tế thực hiện chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang rừng trồng gỗ lớn ở những nơi thích hợp.

Thực hiện Đề án Tái cơ cấu ngành Lâm nghiệp, Bộ NN-PTNT giao cho Tổng cục Lâm nghiệp chủ trì thực hiện Dự án Trồng rừng thâm canh gỗ lớn (keo lai, keo tai tượng) và chuyển hóa rừng cung cấp gỗ nhỏ sang gỗ lớn được thực hiện trong giai đoạn 2014 - 2019 tại các tỉnh Yên Bái, Bắc Giang, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Quảng Trị và Cà Mau với quy mô chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang gỗ lớn 1.120ha (trong đó 360ha keo lai, 760ha keo tai tượng).

Theo Tổng cục Lâm nghiệp, tổng diện tích chuyển hóa rừng gỗ nhỏ sang gỗ lớn là 1.140ha đạt 101,8% kế hoạch, tại 86 xã, 58 huyện. 451 hộ tham gia. Thạc sĩ Nhữ Văn Kỳ, Chủ nhiệm dự án cho biết, hiện có khoảng 322,6 ha diện tích chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang gỗ lớn đã được thực hiện tỉa thưa 2 lần, rừng trồng từ 8 - 10 năm, mật độ hiện tại khoảng 550 - 600 cây/ha, đường kính bình quân từ 18 - 22cm, chiều cao từ 16 - 18m, trữ lượng bình quân từ 140 - 200 m3/ha, năng suất đạt khoảng 18 - 20m3/ha/năm.

So với rừng trồng gỗ nhỏ năng suất bình quân không cao hơn nhưng số cây ít hơn đường kính cây to hơn. So với trồng rừng gỗ nhỏ, lợi nhuận từ rừng gỗ lớn cao hơn nhiều lần tuỳ theo tuổi khai thác và đường kính cây. Chỉ tính riêng đối với loại cây trồng phổ biến là cây keo lai và keo tai tượng, đến năm thứ 6 vẫn còn là rừng trồng gỗ nhỏ nên chỉ có thể bán làm dăm gỗ, gỗ mỏ, giá trị đạt khoảng 80 triệu đồng/ha, thu nhập bình quân từ 10 - 12 triệu đồng/ha/năm.

Thế nhưng, khi trở thành rừng trồng gỗ lớn, tức là cây sau 10 - 14 năm trồng mới tiến hành khai thác, sản lượng đạt từ 200 - 240 m3/ha và hầu hết các cây đã đạt đường kính trên 18 cm, chiếm 50% trữ lượng khoảng 100 - 120 m3/ha. Lúc đó, rừng sẽ được bán theo giá gỗ xẻ, gỗ chế biến với giá trị từ 1,8 - 2 triệu đồng/m3, tức là khoảng 250 - 300 triệu đồng/ha, lợi nhuận bình quân từ 22 - 25 triệu/ha/năm, cao hơn từ 1,5 - 2 lần giá trị rừng gỗ nhỏ và cao hơn giá trị kinh tế đối với rừng trồng gỗ lớn khác như thông, vối thuốc, mỡ…
 

Những mô hình sống động

Ông Kỳ chia sẻ thêm, khó khăn lớn nhất khi triển khai dự án là nhận thức của người dân. Người dân chưa tin tưởng vào hiệu quả của mô hình vì chưa có mô hình để người dân tham quan học tập. Họ cho rằng cây keo để gỗ lớn sẽ bị rỗng ruột, gặp rủi ro do bị bão gẫy đổ và kinh tế khó khăn không để được gỗ lớn cần bán sớm để trang trải cuộc sống. Khi tiến hành tỉa thưa người dân thường có tâm lý tiếc cây, không dám chặt, rất nhiều hộ bỏ ngang khi tham gia dự án.

Tâm lý của người dân thường trồng dày để thân cây thẳng, đỡ tốn công chăm sóc. Mà không biết rằng khi trồng dày, cây rừng sinh trưởng về chiều cao, hạn chế sinh trưởng về đường kính, trồng thưa cây rừng sinh trưởng mạnh về đường kính, hạn chế về chiều cao nhưng tổng sinh khối trên một đơn vị diện tích là như nhau. Như vậy muốn lấy gỗ lớn thì phải trồng thưa hoặc phải tỉa thưa để cây rừng sinh trưởng về đường kính.

14-10-31_nh_5_luc_luong_kiem_lm_bc_ging_kiem_tr_mo_hinh_trong_rung_go_lon_ti_x_phong_minh_huyen_luc_ngn_tinh_bc_ging_tc_gi_duong_di_tien_2
Lực lượng kiểm lâm Bắc Giang kiểm tra mô hình trồng rừng gỗ lớn tại huyện Lục Ngạn.

Chúng tôi đến thăm khu rừng hộ ông Ty Văn Bích ở xã Quảng Lợi, huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh, ông Ty văn Bích cho biết, sau khi được tham gia lớp tập huấn nhân rộng mô hình tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, năm 2015 gia đình ông đã mạnh dạn chuyển đổi 20ha rừng trồng gỗ nhỏ sang kinh doanh gỗ lớn, tỉa thưa đợt đầu được 400 tấn, sau khi trừ chi phí tỉa thưa thu về 260 triệu đồng.

Năm 2016 khu rừng lại bị gẫy đổ gia đình tiếp tục khai thác được 80 tấn thu về được 50 triệu đồng, năm 2019 gia đình tỉa thưa lần 3 được 150 tấn, thu về 100 triệu đồng, bình quân thu được 20,5 triệu đồng/ha. Sau khi khai thác tỉa, cây rừng sinh trưởng mạnh, mật độ hiện tại còn khoảng 650 cây/ha, đường kính bình quân 18cm, chiều cao bình quân 15m, trữ lượng 124 m3/ha (bình quân 17,7 m3/ha/năm)

Ông Nguyễn Văn Tám ở xã Xuân Lộc, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa chia sẻ gia đình ông đã thực hiện chuyển hóa 5ha rừng từ năm 2014, năm 2018 đã thực hiện tỉa thưa lần 2, hiện nay đường kính cây to đã đạt 30cm. Ông đã đưa ra so sánh, rừng trồng keo tai tượng để lấy gỗ lớn có chu kỳ từ 12 - 14 năm, sản lượng gỗ ước đạt 220 m3/ha, trị giá 300 triệu đồng.

Trong khi đó, một chu kỳ khai thác rừng trồng keo cho gỗ nhỏ (bình quân 6 năm sẽ khai thác) chỉ đạt sản lượng 80m3/ha, trị giá 60 triệu đồng. Việc trồng rừng gỗ nhỏ cũng đòi hỏi phải tái đầu tư trồng lại bao gồm chi phí giống, công trồng, chăm sóc ban đầu và có nguy cơ cháy cao hơn so với rừng gỗ lớn.

Dự án Xây dựng mô hình trồng rừng thâm canh gỗ lớn và chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ cung cấp gỗ lớn giai đoạn 2014 - 2019 đã đạt được những nội dung và mục tiêu đề ra, góp phần nâng cao nhận thức cho người dân thông qua việc xây dựng mô hình, đào tạo tập huấn, thông tin tuyên truyền về hiệu quả phát triển rừng trồng cung cấp gỗ lớn.

Đặc biệt đối với các địa phương tham gia xây dựng mô hình, người dân được trang bị những kiến thức và kỹ năng cơ bản về trồng rừng thâm canh và chuyển hóa rừng trồng cung cấp gỗ lớn, tạo điều kiện và thúc đẩy việc phát triển rừng trồng cung cấp gỗ lớn trên phạm vi toàn quốc. Theo Tổng cục Lâm nghiệp, tính đến hết năm 2018, cả nước đã trồng thâm canh được 217.571ha rừng cung cấp gỗ lớn, 85.328ha rừng chuyển hóa gỗ nhỏ sang rừng gỗ lớn, góp phần cung cấp nguyên liệu nâng cao giá trị xuất khẩu.

Nâng cao giá trị kinh tế ngành lâm nghiệp

Với điều kiện và khả năng nhân rộng mô hình chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang gỗ lớn trong thời gian tới là rất khả thi, trên cơ sở phát huy tiềm năng về diện tích trồng rừng sản xuất hàng năm rất lớn (200.000 ha/năm) là đối tượng rất thích hợp để chuyển đổi mục đích kinh doanh rừng.

Để nhân rộng mô hình công tác tuyên truyền về hiệu quả kinh tế về trồng rừng thâm canh gỗ lớn và chuyển hóa rừng trồng cần được tăng cường kết hợp thực hiện chủ trương xã hội hóa các nguồn lực và sự hỗ trợ của nhà nước cùng các chính sách hỗ trợ đi kèm như bảo hiểm rừng trồng, hỗ trợ tín dụng, xây dựng mô hình …để khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia phát triển rừng trồng cung cấp gỗ lớn.

Xem thêm
Gần 6.400 hộ dân huyện Trạm Tấu ký cam kết bảo vệ rừng

YÊN BÁI Các vụ cháy rừng ở Trạm Tấu chủ yếu do bất cẩn của người dân khi xử lý thực bì bằng lửa, vì vậy việc đốt nương làm rẫy đang được quản lý chặt chẽ.

Quảng Bình phạt 2,8 tỷ đồng từ các vụ vi phạm hành chính lĩnh vực lâm nghiệp

Trong quý I/2024, lực lượng kiểm lâm Quảng Bình dự kiến nộp 2,8 tỷ đồng vào ngân sách nhà nước từ 272 vụ vi phạm hành chính trong lĩnh vực lâm nghiệp.

Đặc sắc lễ cúng thần rừng của người Mông Nà Hẩu

Lễ cúng thần rừng là nghi lễ độc đáo được người Mông ở xã Nà Hẩu tổ chức vào ngày cuối cùng của tháng Giêng hàng năm.

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm