Đành rằng khi họ qua máy soi hành lý, hệ thống máy tính và nhân viên an ninh chẳng xâu chuỗi, liên kết được tính nguy hiểm từ những thứ vật chất trôi trên băng chuyền dưới sự xoi mói không ngừng của tia X: cái cà ràng nhỏ đựng trong giỏ nhựa giả mây, một cái chảo gang, ca mủ, ba que diêm (một trong số đó bị lép) nép trong hộp mà phần giấy nhám thân vỏ đã mòn lớp phốt pho.
Hết thảy chúng đều ẩn hình dưới những hình khối màu vàng trong màn hình máy tính, màu mặc định vô hại của hữu cơ.
Trong bản tường trình sau đó, nhân viên an ninh thú nhận rằng nếu chị vợ vào cùng lúc với chồng, với bó củi chẻ nhỏ dưới đáy giỏ, phía trên nào bột bánh nào rau dưa, họ cũng không thể hình dung ra bếp lửa sẽ được nhen lên. Chúng trông giống như những vật thể trôi nổi khác mà bao hành khách mang theo bên mình trong cuộc nổi trôi. Giỏi hình dung lắm thì cũng nghĩ tới cuộc chuyển nhà.
Chị vợ vào sau, khi sực nhớ quên mua hành lá. Không có hành lá pha bột thì món bánh xèo trớt dữ, nghĩ vậy, chị xé lẻ rảo một vòng sảnh trước mong gặp một sạp rau. “Lội muốn rã cặp giò” như chị kể lại với người quen, nhắm không thể tìm được thứ mình muốn ở một nơi chốn như vầy, chị băng qua khoảng sân tanh tanh nước mưa chan ngập, ra khỏi khu vực sân bay. Bên kia đường, đi thêm một quãng nữa, chị tạt vào một quán phở nài người ta chia lại ít tép hành.
Sau này, khi bị thuyên chuyển sang bộ phận khác, một nhân viên an ninh trẻ trong ca trực khuya đó, viết trên trang cá nhân của mình, rằng cậu - chắc bải hoải vì đã nửa đêm, khoảng thời gian ở giữa ca cậu thường cảm thấy như mình mộng du - đã bỏ qua chỉ dấu quan trọng: lời của người đàn bà khi bị thu giữ con dao cán vàng cùng chai nước mưa. Chính cậu đứng ngay cạnh chị, chờ người đàn bà lục tung cái giỏ xách giao ra hai thứ kiêng kỵ xách tay. “Rồi tụi này cắt hành bằng gì đây?”, chị thảng thốt nói, “mà bột bánh đã được pha sẵn đâu”.
Nhưng chị không bối rối lâu, khi nhác thấy chồng đứng đợi gần đó. Ngó anh đổi chân trụ liên tục, chị bứt mắt dứt khoát khỏi cái thùng đựng mớ vật dụng bị thu giữ. Sẽ xoay xở được hết, ba cái lẻ tẻ này sao làm khó được mình, chị nghĩ vậy. Nước chị mua lại từ một quầy bán thức ăn nhanh, hành lá chị bảo chồng ngắt nhỏ. Anh càm ràm phải chị đừng cắt móng tay cho anh hồi sớm nay thì công việc ngắt hành tiện hơn rồi. Đôi bàn tay chỉ móng hai ngón út là còn dài, anh bảo vợ để lại, vì sắp tới anh không còn gối đầu lên đùi chị cho chị lấy ráy tai. Từ mai anh tự làm, bằng móng vuốt của hai ngón út, thay cho cái que ngoáy tai mà anh cự tuyệt việc tự mình chọc vào. Nhưng đúng là chúng - thứ móng vuốt còn sót lại chỉ làm được mỗi chuyện vặt ấy. Ngắt hành phải là ngón cái.
Mặc chồng lèm bèm, chị vợ tập trung hết cỡ vào việc nhen lửa, như thể cái lườm của mình sẽ làm mớ dăm bào tắt ngóm đi. Chị đã dụng đến que diêm cuối cùng. May khói đã lên và lửa ban sơ.
Đó là khi máy bay đã cất cánh được một lúc. Chị vợ đã nôn xong. Chỉ chút ít dãi nhớt bợn dạ, từ xế giờ hớt hải có kịp ăn gì đâu. Chồng cũng đói y chang mình, chị nghĩ. Cố nuốt cơn chạo chực, chị vén tay áo, bảo chồng lấy cà ràng xuống, kê ngay chỗ lối đi ngang cửa thoát hiểm giữa tàu bay, chỗ rộng nhất, đỡ lo lửa ngọn bén vô vải bọc ghế.
Khi sự cố củi lửa lây lan trên các phương tiện truyền thông, người ta đặt câu hỏi, nếu an ninh mặt đất sơ suất, hệ thống báo cháy phi cơ bị lỗi (thật tình cờ làm sao), nhưng đội phục vụ bay sao lại tê dại chẳng chút phản ứng nào. Bài học cơ bản mà họ được dạy, lửa khói là thứ cấm ngặt, không phải sao? Và những hành khách còn lại, dẫu chuyến khuya thưa khách sau những ngày bệnh dịch nhưng cũng phải tới sáu mươi bảy người cả thảy, họ hôn mê cả rồi?
“Lúc ngửi được mùi khói dăm bào, tôi tưởng đâu mơ không chớ. Hít một hơi, nghĩ chúng được bào từ cây thao lao. Cậu ruột tôi có xưởng mộc, giờ phá sản tan tành hết, nhưng hồi tôi chín mười tuổi, nó làm ăn được lắm, mỗi lần tôi qua chơi ông dạy tôi phân biệt mùi gỗ qua mấy thứ tủ bàn ông đóng”, một nhân chứng kể.
Tưởng chiêm bao là lý do của hầu hết kẻ có mặt trên chuyến khuya ấy. Những thứ khó tin quá, hoang đường quá, thì là mơ thôi. Ai mà nghĩ được đổ bánh xèo trên máy bay xảy ra trong đời thực. Chỉ là trong giấc mơ đó họ hết sức bất an, bởi mọi thứ sống động, sắc nét quá.
Tiếng bột loãng cháy xèo trong lòng chảo nóng, tiếng hít hà của người đàn ông kêu bánh thơm ơi là thơm, tiếng người đàn bà phát vào tay chồng, gắt “coi chừng phỏng kìa”, mùi của những bọt nước sủi ra chỗ đầu cây củi ướt, mùi nghệ hăng hăng quến vào hành, cả mùi một sợi tóc cháy, chắc là rụng từ mái đầu chị vợ.
“Nhưng biết đâu là trò thôi miên khói?”, một bài báo chừng như không thỏa mãn với giả thuyết chiêm bao, đã nhắc lại vụ án từng gây hoang mang trên những chuyến xe đò Bắc Nam hơn thập kỷ trước. Những nạn nhân trước khi bị mất sạch tài sản mang theo người đã bị thôi miên bằng thứ khói xanh mỏng không mùi. Khói hít vào chưa đến phổi, cơn buồn ngủ tới.
Trong những giấc sâu trôi nổi quên mình, tùy vào ký ức của mỗi người mà họ thấy một cảnh đốt đồng, chòi vó bốc cháy giữa đêm mang theo mùi khét của những con ong bầu làm tổ trong cây ven vách không thoát kịp, mấy con cá nướng trui dựng ngược trên đống rơm tàn. Cả người không xuất thân quê làng, cũng trầm luân qua những ảo cảnh, một đống lá khô cháy ngún bên đường, xề chuối nếp nướng chín vàng vỡ lớp lá gói ngoài, vảy da chết của bà già sưởi tay trên bếp lửa dưới dạ cầu ngày đông giá.
“Không có ký ức thì thôi miên không tác dụng, có thể ấy là lý do em bé duy nhất trên chuyến bay không bị mê sâu”, bài báo chốt hạ một câu, “nếu đứa trẻ chín tháng tuổi đó không ngộp khói khóc um lên, khiến cả khoang bừng tỉnh, thật không dám hình dung thảm họa gì xảy ra sau đó”, bài báo kết luận.
“Ủa họa gì là họa gì, tụi tôi chỉ có nhiêu củi đó thôi, tráng chừng năm bảy cái bánh xèo là hết, giữa trời vầy củi quơ đâu ra mà bếp đỏ lửa hoài”, chị vợ nói trong đoạn phim ghi lại cuộc truy vấn. Lúc hành khách chạy dồn về phía cửa thoát hiểm phía sau đuôi máy bay, những tiếp viên gào thét vừa cầm bình chữa cháy xịt xối xả vào cà ràng, chị còn mắc cười. Dụi phần củi cháy vào tro là lửa rụi, làm chi ô dề vậy. Cứ như vợ chồng chị đốt máy bay không bằng.
Chị chỉ linh cảm xấu khi những người khách, sau khi định thần rồi, trong lúc trở lại chỗ ngồi, liên tục ném vào bọn chị cái nhìn giận dữ. Vài người giơ điện thoại quay phim chị với chồng, lúc này bị dí vào hàng ghế cuối, trước sự canh chừng cẩn mật của vài ba người đàn ông tình nguyện cùng một nửa đội tiếp viên. Và chị sợ rụng rời khi nhìn thấy chồng gần như bị lôi xểnh khỏi máy bay, trong vòng vây đầy vẻ trấn áp, uy hiếp của đội an ninh mặt đất. Suốt đường đi từ cầu thang máy bay đến phòng truy vấn, vài lần chân chị vấp vào chân.
Nhưng khi vào phòng họ ấn anh chồng ngồi cạnh bên, chị - vẫn gá mông một chút ở mép ghế - thôi bấu hai tay vào ống quần mình, mà lần tìm tay anh, nắm lấy cái ngón út vẫn còn đoạn móng thuôn dài sớm nay anh nài chị đừng cắt. Ngón út nhắc chị nhớ anh vẫn còn chuyến bay nữa, một mình. Chị chỉ tiễn được đoạn này thôi. Ngó về góc phòng, nơi mớ vật dụng bếp núc của mình bị gom thành đống, vài cây củi cháy dở sút sổ, một đầu rau cà ràng đã biến mất, không biết gãy lìa lúc nào, vài cọng củi cháy dở, rau dưa nhân bánh cùng mớ bột pha chưa kịp chiên tráng giờ thành một khối bết dính hỗn độn, chị sực nhớ hai cái bánh mình đã chiên khi nãy, không biết chúng nằm lẫn ở đâu, vẫn còn ăn được hay lấm lem bụi cát.
Đã bảo chồng ăn trước rồi, nhưng anh cứ nằng nặc đợi. “Còn lâu lắm tụi mình mới được ăn chung bữa”, anh nói, tay bẻ rìa bánh mỏng bỏ vào miệng nhâm nhi. Cho tới lúc đó anh vẫn tin, rằng mình đi rồi quay lại, mấy hồi. Không hay vợ mình giấu trong lòng hai chữ thê lương: “bữa cuối”.
Phải chiếc ghe tải không bị phá nước bất ngờ, phải vợ chồng chị không mất thời gian dời dạc mấy khối cát ướt của khách lên bờ, thì đã có bữa ăn chia tay tử tế. Bọn chị sẽ nhen lửa đổ bánh chỗ kè bê tông dưới dạ cầu Xóm Cũ, chỗ ghe chị hay neo lại sau mỗi lần giao gạo cho vựa xong. Sẽ nuốt uống vào lòng không chỉ thứ bột nghệ được chiên giòn mình trong đáy chảo, gói cùng với rau rừng, trước khi đẫm mình vào nước mắm chua, mà còn là tiếng đũa người kia, tiếng chép nuốt, cách người kia cắn ngập trái dưa leo, mảnh rau nhỏ giắt răng, cách liếm mấy ngón tay dính dấp chút bột nghệ nhão chỗ bọc lấy phần nhân bánh, đầu lưỡi phè phỡn đảo một vòng môi thu vén những béo ngậy của dầu chiên.
Vào những thời khắc kiểu vậy, khi cuộc chia tay mang đầy dự cảm bất an, cảnh sắc xung quanh được thiêng liêng hóa, con người ta sẽ trở nên tham lam vô độ, sẽ nhồi nhét vào mình cả hình ảnh mấy tờ giấy kiếng màu, loại gói hoa, nửa bay nửa liệng trên bến, và gió tháng Mười thốc lên từ mặt sông xông thẳng vào cái cà ràng làm nên cơn mưa tro nóng hổi. Mớ củi đã dụi tắt lửa vẫn còn vài sợi khói.
Nhưng bữa cuối thành ra nông nổi vầy rồi. Chị liên tục đưa mắt giữa cây kim giây giật nảy trong cái đồng hồ treo tường và mớ hành lý loạn lạc của mình. Chắc cuộc truy vấn sớm kết thúc thôi, họ hết biết tra gạn gì khác, hỏi hoài chỉ bấy nhiêu câu. Ai là chủ mưu? Đây có phải là biết mà cố tình làm trái quấy? Hết chuyện rồi sao mà nấu nướng trên máy bay?
“Nấu trên ghe được, máy bay mắc gì không? Ủa?!”, trong đoạn phim mặt anh chồng vẫn còn vẻ gì đó trẻ con, dù xùm xòa râu tóc, trong khi chị vợ mặt mũi khằn thấy rõ. “Trên trời thì như sông thôi, tôi thấy hoài trên truyền hình mấy ông phi hành gia trôi nổi. Máy bay như chiếc ghe thôi chớ gì mà làm quá”.
Những chữ cuối cùng dây thanh quản anh chừng như rung quá mức, âm vống lên một cách khoa trương. Dấu hiệu anh đang cãi cùn. Như cuộc nói chuyện với vợ anh (lúc ấy hãy chưa là vợ), một buổi trưa nào đó, khiến cả khúc sông đều nghe thấy, rằng lệch gần hai chục tuổi thì có sao đâu. “Tui mà nuôi râu, là tụi mình già như nhau”, anh nói, chân đạp xô mũi ghe ra cùng lúc liệng cái túi đựng quần áo vào sâu trong mui, như thể bằng cách đó chị không thể xua đuổi anh được nữa.
Về sau anh thú nhận anh biết chớ sao không, máy bay đắt đỏ gấp tỉ lần chiếc ghe tải chở hàng mướn của vợ chồng anh. “Mua được cặp vé muốn mạt luôn”, anh nói, “Bước lên nó cũng bị năm soi bảy xét, dễ đâu”. Sao giống một chiếc ghe thả lỏng, mở lòng. Như một đêm nào đó anh, lúc đó vẫn còn là cậu thanh niên bốc vác cho nhà máy xay xát gạo, tuồn mình xuống ghe, tốc mùng đè lên chị chủ đẫy đà. Theo cách một mảnh sắt áp vào thỏi nam châm.
Ảnh chụp đôi vợ chồng không che mặt truyền khắp mạng xã hội, người ta thấy anh chồng nhìn quen lắm. Nhận ra anh từng xuất hiện trên sóng truyền hình, trong chương trình “Tìm lại tình thân”. Trong vòng vây nước mắt của bà mẹ mà anh đã thất lạc mười chín năm, anh cứ rướn cổ ngó về cánh gà bên phải. Vợ anh đang ẩn mình trong đó. Cuộc tìm mẹ cho anh là chị khơi, gọi điện cho chương trình là chị, cũng chị lén lấy mẫu xét nghiệm huyết thống từ chồng. Vào cái đêm đầu tiên khi anh trằn trọc miết mãi đôi vú mình, chị nhận ra anh nhớ mẹ. Vô cùng.
Và bữa bánh xèo nhân thịt vịt, như anh đòi ăn cho bằng được, là để tiễn anh về nhà, sau cuộc sum họp ngắn ngủi được truyền hình làm chứng trước đó. Nhà anh xa đến nỗi anh tin bên đó không có bánh xèo, hoặc có thì cũng chẳng kiếm đâu ra mớ lá đa hương vị ăn kèm, những đọt lụa chua, lá cách dày mùi, lá đinh lăng hăng chát. Và bởi nhà anh xa quá, chị nghĩ mình quá già để cùng đi. Nghĩ mình sẽ già sọp ngay trên chuyến bay dài đó, bao thuốc nhuộm trôi hết bày ra mớ tóc bạc thê lương, và khi bước ra phi trường bên kia bán cầu, cái nắng ôn đới xa lạ không chút vị tình chiếu thẳng vào từng bó cơ chảy sệ.
Ngồi một chỗ đợi thôi mà chị còn e là mình quá già để đợi một người đàn ông trẻ trung quay lại. Và trong lúc ngồi chờ nhận lấy trừng phạt cái tội nhen lửa trên trời, mà không biết lệnh cấm bay có thời hạn có thể được thực thi ngay lập tức, chị vẫn hy vọng hai cái bánh xèo chưa thiu. Chồng có thể mang chúng lên ăn ở chuyến bay kế tiếp.
Chị đã hỏi cặn kẽ rồi, bánh xèo thì được phép.