Tỷ phú Bill Gates là niềm cảm hứng của những người trẻ có hoài bão, năng lực muốn chinh phục những mục tiêu cao nhất, Nhưng về chuyện tình yêu, cũng không thể khác được.
Hai hồn thơ cùng nghe suối chảy giữa rừng thông
Chẳng ai ngờ, những năm tuổi già, Dư Thị Hoàn - Trịnh Hoài Giang lại dắt díu nhau vào sống ở một bản người Lạch trên cao nguyên Langbiang.
Lê Thiếu Nhơn - Xuân Hào | 20:00 07/10/2023
Đồng nghiệp hay bạn bè, khi có dịp lên Đà Lạt muốn ghé thăm chỗ ẩn cư của vợ chồng Dư Thị Hoàn – Trịnh Hoài Giang thì được hướng dẫn theo cách khác biệt so với Google Map: “Theo lối Làng Cù Lần. Đi tiếp vào trong Nhà máy thủy điện Ankroet. Qua đường có lan can sắt sơn vàng. Đến tảng đá có biểu tượng Nhà máy thủy điện Ankroet thì rẽ trái luôn vô con đường rừng khoảng 200m, qua cây cầu Mây sơn trắng rồi theo đường độc đạo vào làng dân tộc.
Hỏi nhà Lão Bà Bà. Vô đây, phải xài mạng Viettel mới gọi được!”. Chỉ cách khu vực trung tâm du lịch với những địa danh nổi tiếng hồ Xuân Hương hoặc đồi Cù khoảng 20 km, nhưng nơi cư ngụ của họ cực kỳ hẻo lánh. Bạt ngàn thông, chập chùng dốc và những lối nhỏ mấp mô lên núi. Cứ ngỡ nữ sĩ Dư Thị Hoàn chỉ xưng Lão Bà Bà trên Facebook cho vui, ai dè những người dân tộc Lạch ở thôn Đạ Nghịch, xã Lát, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng đều biết. Một phụ nữ đang bế con bên suối vắng, nhiệt tình cho biết: “Cứ đi ngược lên, Lão Bà Bà ở chỗ vắng nhất, có ba căn nhà gỗ nằm từ thấp đến cao!”.Một căn nhà gỗ hiện ra giữa rừng thông,
vợ chồng Dư Thị Hoàn - Trịnh Hoài Giang đứng trên lan can vẫy tay chào. Phong cảnh nên thơ thật, tiếng người nói chen lẫn tiếng chim hót và tiếng lá reo. Nếu so với thành phố Cảng mà họ từng sinh sống cả đời thì khác nhau một trời một vực. Nhà thơ Trịnh Hoài Giang tâm sự: “Lúc mới vào đây, nhiều đêm giật mình trong bốn bề gió núi, tôi vẫn như nghe có sóng vỗ bên tai mình!”. Nhà thơ Trịnh Hoài Giang năm nay 85 tuổi. Chân của ông đã yếu rồi nên chọn căn nhà gỗ nằm bên dưới, cho thuận tiện di chuyển lúc đau ốm. Còn nữ sĩ Dư Thị Hoàn tuổi 76 vẫn thoăn thoắt leo qua những bậc đá, quyết chọn căn nhà gỗ nằm bên trên. Hai căn nhà gỗ cách xa nhau chừng 800 m, nhìn thấy nhau dễ dàng nhưng đi chỗ nọ qua chỗ kia cũng mệt bở hơi tai. Còn căn nhà gỗ nằm lưng chừng, thì giống như chỗ nghỉ chân. Nhà thơ Trịnh Hoàng Giang thổ lộ, dạo trước ở Hải Phòng cứ bệnh tật triền miên, nhưng từ ngày vào đây thì sức khỏe của ông được cải thiện rất tích cực. Xem như, ông thêm một lần được hòa mình với môi trường yên tĩnh, để bớt những dằn vặt của sự thay đổi mà ông từng thảng thốt: “Bây giờ ruộng đã bê - tông/ Cây đa đã cụt, dòng sông đã què/ Mái đình đã phẳng đường xe/ Còn đâu cánh võng mà nghe chuông chùa”. Tất nhiên, chốn heo hút ở cao nguyên Lâm Viên hiện nay vẫn chưa có chuông chùa, nhưng những lời kinh đêm đêm của nữ sĩ Dư Thị Hoàn cũng đủ vỗ về nhà thơ Trịnh Hoàng Giang những niềm riêng xa khuất mà ông từng viết: “Nỗi khổ lớn như biển/ Tan đi dưới mạn thuyền/ Chỉ còn bài thơ ấy/ Gõ sáng vào bóng đêm”.(Trích băng ghi âm ca khúc “Lao xao rừng thông” của Thế Bảo, do Phương Thùy hát)Để có hai hồn thơ phiêu lãng trong rừng thông hôm nay, mối duyên giữa Dư Thị Hoàn và Trịnh Hoài Giang nhen nhóm từ hơn nửa thế kỷ trước. Sau khi tốt nghiệp khoa Văn – Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1961,
nhà thơ Trịnh Hoài Giang về dạy học ở Trường Kiều Trung - Hải Phòng. Ông đã dạy tiếng Việt cho người Hoa suốt 13 năm. Học trò của ông đã lang bạt khắp bốn phương, song vẫn còn một cô học trò bên cạnh ông chính là nữ sĩ Dư Thị Hoàn. Những bài giảng Kiều của thầy giáo có phong cách nhà thơ đã khiến cô học trò Vương Oanh Nhi say mê và thán phục. Và tình yêu văn chương đã gắn kết tình yêu đôi lứa, như cách nhà thơ Trịnh Hoài Giang nhắn nhủ: “Em là con thuyền con/ Cứ bồng bềnh như thế/ Cánh buồm ơi cánh buồm/ Có phải nỗi cô đơn/ Hay là niềm hy vọng”. Năm 1968, cô học trò Vương Oanh Nhi đồng ý làm vợ của thầy giáo Trịnh Hoài Giang. Dù sau này trở thành nữ sĩ Dư Thị Hoàn lừng lẫy không kém chồng, ký ức cô học trò Vương Oanh Nhi vẫn vẹn nguyên một miền hồi ức tươi đẹp, như bà hồi tưởng “Từ một cô gái không biết một câu tiếng Việt nào, tôi đã yêu văn chương Việt qua những tiết học của ông ấy”.Chấp nhận làm vợ của một nhà thơ, người phụ nữ gốc Hoa - Vương Oanh Nhi cũng phải vượt qua không ít giông bão. Bà làm thợ may, rồi làm thợ tiện suốt những năm bom đạn kẻ thù rình rập ném xuống miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Hai đứa con lần lượt ra đời, cũng một tay bà chăm lo để chồng yên tâm chuyển về công tác ở Hội Văn nghệ Hải Phòng. Cái lãng mạn mà nữ sĩ Dư Thị Hoàn từng nuôi nấng, được phản ánh trong thơ, thật cam go: “Có lối nhỏ chia đôi thảm cỏ/ Em thả bước chán chường/ Có lối nhỏ gập ghềnh sỏi đá/ Gót chân em nện xuống dữ dằn/ Có lối nhỏ vương cây xấu hổ/ Em sợ nó khép cành/ Biết làm sao bây giờ/ Chính lối này đưa em tới anh”. Nhọc nhằn cơm áo, có lúc đẩy người đàn bà yếu đuối Dư Thị Hoàn ra chợ Sắt chen lấn cùng dân buôn tứ chiếng: “Tôi gánh cả si mê ra chợ/ dựng hy vọng quán lều/ đem nồng nàn ra đong/ đưa mặn mà ra đếm…/ Từ gà gáy đến xế chiều/ lòng vắng chẳng buồn trông/ tôi lại đem nồng nàn ra đong/ lôi mặn mà ra đếm/ bầy chút e dè lên bàn cân/ bớt bớt thêm thêm…/ chiếc kim cân dùng dằng mệt mỏi/ có biết đâu/ người bán là tôi/ người mua cũng là tôi/ chợ chiều gió nổi”. Thế nhưng, nghiệt ngã mưu sinh không làm bà đau đớn bằng những biến động thời cuộc. Chia lìa và ly tán, khiến bà gào thét tuyệt vọng: “Sao mẹ không nói cho rõ/ Mẹ con mình rồi mỗi người một ngả/ Để con được lao vào lòng mẹ/ Khóc cho hết hơi/ Khóc cho trời sập/ Khóc cho cột điện đổ/ Khóc cho tà vẹt trôi/ Khóc cho còi tàu căm bặt/ Khóc cho tay lái rời vô lăng/ Khóc cho đoàn tàu không dám lăn bánh”. Và nữ sĩ Dư Thị Hoàn thảng thốt gọi “Tổ quốc” với tất cả giằng xé của người phụ nữ chịu đựng sự nghiệt ngã về quan niệm rạch ròi nơi cội rễ và nơi sinh thành trong một khoảnh khắc lịch sử trớ trêu cuối thập niên 80 của thế kỷ 20: “Đất đai đóng khung vì người/ Tình yêu chật hẹp vì người/ Những lúc người thành cái chiêu bài, của hạng buôn máu tươi và thuốc nổ/ Đường viền của người thắt quặn trái tim tôi”. Có dạo, không vượt qua được những áp lực căng thẳng, nữ sĩ Dư Thị Hoàn phải điều trị tâm lý. Giữa chới với không biết bám víu vào đâu để tồn tại, cũng may, bà đã có thi ca nâng đỡ. Những kiến thức từng được học ở chính người chồng, đã giúp bà làm thơ để tự an ủi mình, tự cứu vớt mình theo cách riêng: “Tôi sẽ khỏi bệnh/ Lại dịu dàng hát bên chiếc khung thêu ngày ấy/ Không cần bác sĩ/ Không cần những viên thuốc đắt tiền/ Chỉ cần đôi bàn tay nào run rẩy mang đến/ Một nhành hoa dại thôi”.Rồi những ngày u uất cũng trôi qua, nữ sĩ Dư Thị Hoàn không chỉ nổi tiếng về thi ca mà còn nổi tiếng về kinh doanh. Công ty Huệ Hoa của bà tại Nhạc sĩ Quốc Dũng còn vùng mây trắng bay đi tìm nhau làm ăn rất phát đạt.
Những năm cuối thế kỷ 20, nữ sĩ Dư Thị Hoàn kiêm thương gia Vương Oanh Nhi là một gương mặt giàu có ở đất cảng. Có tất cả những điều người khác mong muốn, nhưng Dư Thị Hoàn vẫn buồn bã, vẫn cô đơn. Bà giao lại hết mọi việc làm ăn cho con cái, rồi đi làm công quả cho các chùa gần chùa xa, chùa trong nước, chùa nước ngoài. Và cuối cùng, bà chọn một rẻo đất lọt thỏm giữa rừng thông Lâm Đồng để an nhiên tự tại, như bà từng mong mỏi: “Đừng bắt tôi lên diễn đàn/ Đừng buộc tôi ra sân khấu/ Hãy để tôi ngồi yên trong góc tối/ Như cái triện đen/ Giáng xuống/ Tờ khai sinh của tôi/ Thời cuộc sắp đặt tôi/ Gần hết một đời rồi/ Tôi đã quen chỗ ngồi/ Góc tối”. Xã Lát, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng hiển lộ và mời gọi một cuộc sống hoang dã nhưng trong trẻo và thánh thiện! Nữ sĩ Dư Thị Hoàn vào trước, dựng nhà dựng cửa rồi kéo cả ông chồng nhà thơ Trịnh Hoài Giang vào ở chung, để cùng nghe suối róc rách chảy qua nắng mưa thăng trầm. Hai con trai của vợ chồng Dư Thị Hoàn - Trịnh Hoài Giang đều có sự nghiệp riêng. Thỉnh thoảng con mời đi du lịch, thì ông bà lại khăn gói xuống núi ít hôm, rồi lại quay lên căn nhà gỗ chênh vênh vách đá. Thuở nào, nhà thơ Trịnh Hoài Giang viết cho người vợ lam lũ: “Em trở giấc trong giường/ Rồi hồn nhiên như trẻ/ Thương nhau thành tấm bé/ Thương nhau thành thuốc thang”. Còn bây giờ, ông nhìn bà cuốc đất trồng rau bằng nụ cười đã lắng hết nhọc nhằn, thỉnh thoảng lại nhắc một câu ân cần: “Cẩn thận đấy, mùa này nhiều rắn rết lắm”.
Hai hồn thơ cùng nghe suối chảy giữa rừng thông
Chẳng ai ngờ, những năm tuổi già, Dư Thị Hoàn - Trịnh Hoài Giang lại dắt díu nhau vào sống ở một bản người Lạch trên cao nguyên Langbiang.
Lê Thiếu Nhơn - Xuân Hào
Các chương trình
Nhà thơ Hữu Loan tạm biệt cô bé học trò Lê Đỗ Thị Ninh để làm công tác tuyên truyền cứu quốc. Ông đã viết những bài thơ thời sự phục vụ cách mạng.