Nhà thơ Thế Lữ duyên nợ ngày thắm tươi bên đời xuân mới

Nhà thơ Thế Lữ đám cưới với Song Kim. Không ai phủ nhận họ là cặp rất đẹp đôi trong giới nghệ sĩ, nhưng nỗi buồn lại trút sang cho người vợ đầu vẫn lặng lẽ ở đất Cảng.

Lê Thiếu Nhơn - Xuân Hào  | 

Nhà thơ Thế Lữ duyên nợ ngày thắm tươi bên đời xuân mới

Tự động

Nhà thơ Thế Lữ, tên thật Nguyễn Thứ Lễ, sinh năm 1907 tại Hải Phòng. Năm 1934, Thế Lữ cùng Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Thạch Lam và Tú Mỡ thành lập Tự Lực Văn đoàn. Năm 1935, tập “Mấy vần thơ” của ông xuất hiện, góp phần cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào Thơ Mới.

Trong bài thơ “Cây đàn muôn điệu’, Thế Lữ bộc bạch: “Tôi chỉ là một khách tình si/ Ham vẻ Đẹp có muôn hình, muôn thể/ Mượn lấy bút nàng Ly Tao, tôi vẽ/ Và mượn cây đàn ngàn phím, tôi ca”. Và ông thực hiện được ước mơ đời mình: “Tôi muốn làm nhà nghệ sĩ nhiệm mầu. Lấy thanh sắc trần gian làm tài liệu”.

Mùa xuân 1944, khi cùng đoàn kịch lưu diễn tại Hội An, Thế Lữ tình cờ nghe được một ca khúc của nhạc sĩ La Hối (1920- 1945) với ca từ tiếng Trung của Diệp Truyền Hoa. Giai điệu rộn ràng ấy đã thôi thúc Thế Lữ viết thêm lời Việt có tựa đề “Xuân và Tuổi trẻ” dạt dào: “Ngày thắm tươi bên đời xuân mới/ Lòng đắm say bao nguồn vui sống/ Xuân về với ngàn hoa tươi thắm/ Ta muốn hái muôn ngàn đóa hồng”.

Đến hôm nay, ca khúc “Xuân và tuổi trẻ” với ca từ của Thế Lữ đã trở thành bài hát kinh điển không thể thiếu mỗi dịp sum vầy đón Tết của người Việt, với bao nhiêu ước vọng: “Vui sướng đi cho đời tươi sáng/ Vui sướng đi cho lòng thêm tươi/ Ta hát ca đón mừng xuân mới/ Ta hát ca cho lòng thêm hăng hái”.

(Trích băng ghi âm ca khúc “Xuân và Tuổi trẻ”, do Thanh Lan hát)

Khác với những rạo rực trong ca từ “Xuân và tuổi trẻ”, nhà thơ Thế Lữ ở tuổi thanh niên thường xuyên đau ốm, nên nhiều người khuyên nên sớm cưới vợ. Dân gian vẫn quen gọi tập quán ấy là “xung hỷ”.

Con dâu út của Thế Lữ là bà Phạm Thảo Nguyên chia sẻ: “Khi bố được 17 tuổi, bà nội về một làng đạo ở Hà Nam, đi xem mặt các cô gái trong làng, bà chọn mẹ chồng tôi, một cô gái hiền lành ngoan đạo 19 tuổi cho con trai của bà. Mẹ chúng tôi kể lại là trước đó, có nhiều người đến dạm hỏi mẹ, nhưng cứ có người đến hỏi, là mẹ ốm rất nặng, chỉ khi bà Lang đến hỏi cho bố thì không ốm, nên gia đình bằng lòng gả. Cưới con dâu về, theo tục lệ, bà nội truyền nghề “bà lang” cho. Vì vậy, mẹ vừa phải đi chợ lo cơm nước cho toàn gia đình, nuôi con nhỏ, cho con bú, vừa phải làm thuốc để bán, vưà đi khám bệnh cho thuốc khi có khách mời (cũng có lúc, có thêm người giúp việc). Vì vậy mẹ học được tính làm việc rất sạch sẽ, kỹ lưỡng, cẩn trọng khi nuôi trẻ, và làm cơm nước khéo léo, tinh khiết. Và cũng vì đi chữa bệnh thường, mẹ có chút tiền dư để riêng, không phải để tiêu cho mình, mà để bù tiền chợ cho bà hài lòng”.

Bà Nguyễn Thị Khương sinh hạ cho nhà thơ Thế Lữ cả thảy 4 người con, 3 trai 1 gái. Bà chấp nhận ở nhà thay chồng chăm sóc mẹ già và nuôi dạy con thơ, để Thế Lữ được thỏa sức phô diễn tài nghệ ở chốn kinh kỳ Thăng Long. Vài tháng, Thế Lữ mới về nhà dăm bữa, rồi lại đi theo tiếng gọi văn chương và sân khấu. Bà Nguyễn Thị Khương không biết viết, nhưng biết đọc. Mỗi lá thư của chồng gửi về, đều được bà cất giữ rất kỹ, để lâu lâu đem ra đọc lại cho bớt nỗi ngóng trông và thương nhớ.

Tuy lãng đãng gió trăng, nhưng nhà thơ Thế Lữ cũng cảm nhận được những vất vả mà vợ mình phải chịu đựng khi sống với mẹ chồng khó tính. Ông giải thích cho vợ hiểu rằng, do tình duyên của mẹ gặp nhiều trắc trở nên việc hành hạ con dâu cũng vì những uất ức không thể giải bày với ai.

Để cải thiện quan hệ mẹ chồng - nàng dâu, Thế Lữ viết một truyện ngắn mổ xẻ vướng mắc ấy và giả vờ là tác phẩm của người khác, rồi đọc cho mẹ nghe. Thế Lữ có ngờ đâu bà lang rất tinh ý, nghe qua mấy đoạn đã cầm lấy cái tráp đựng trầu dằn mạnh xuống phản gỗ một cái rầm: “À, thế ra anh lại muốn dạy tôi đấy!”.

Thế Lữ sợ mẹ giận, vội vàng chạy ngược lên Hà Nội. Còn lại bao nhiêu tai tương tiếp tục do bà Nguyễn Thị Khương gánh hết.

Những ngày ngược xuôi viết kịch và dựng kịch, Thế Lữ đã gặp một người con gái Hà Nội đam mê sân khấu là Phạm Thị Nghĩa. Gia đình không chấp nhận “xướng ca vô loài”, nên Phạm Thị Nghĩa chỉ mon men đến gần sàn diễn bằng tư cách một người bán vé từ thiện.

Với con mắt nhà nghề, Thế Lữ nhận ra Phạm Thị Nghĩa có tài diễn viên. Vì vậy, khi đưa kịch bản “Gái không chồng” của Đoàn Phú Tứ lên sân khấu tại Hải Phòng, Thế Lữ đã cho người lên Hà Nội mời Phạm Thị Nghĩa vào vai cô Mão. Dù diễn ở Hải Phòng, nhưng Phạm Thị Nghĩa vẫn sợ người thân phát hiện, bèn đánh liều lấy nghệ danh Song Kim. Phút giây bất ngờ ấy, đã giúp nền kịch nghệ Việt Nam sau này có được một Nghệ sĩ Nhân dân Song Kim!
Năm 1938, Thế Lữ đám cưới với Ca sĩ Như Quỳnh vẫn mơ một lần được mặc áo cưới. Không ai phủ nhận họ là cặp rất đẹp đôi trong giới nghệ sĩ, nhưng nỗi buồn lại trút sang cho người vợ đầu vẫn lặng lẽ ở đất cảng. Dù xã hội thời đó vẫn xem đa thê là chuyện bình thường, nhưng bà Nguyễn Thị Khương vẫn không khỏi bẽ bàng.

Bà Nguyễn Thị Khương luôn tìm cách che đậy niềm riêng ê chề kia. Bà dùng những câu chuyện nhẹ nhàng để giúp các con gìn giữ hình ảnh tốt đẹp của người cha nổi tiếng. Bà kể: “Hồi trẻ, bố hay nóng giận. Những khi giận, bố chỉ nện gót giày nặng thêm thôi. Mẹ nghe tiếng giày là biết ngay, tránh không nói gì hết cho đến khi cơn giận của bố tan đi”.

Tự động

Nhà thơ Thế Lữ duyên nợ ngày thắm tươi bên đời xuân mới

Nhà thơ Thế Lữ đám cưới với Song Kim. Không ai phủ nhận họ là cặp rất đẹp đôi trong giới nghệ sĩ, nhưng nỗi buồn lại trút sang cho người vợ đầu vẫn lặng lẽ ở đất Cảng.

Lê Thiếu Nhơn - Xuân Hào

Các chương trình

Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước có niềm lãng mạn giữa bản hùng ca
Chuyện tình khó quên

Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước có biết đâu, chính Lan đã dùng tên Thu Hương để viết thư cho ông, nhưng đứng trước mặt thần tượng thì cô không dám thú nhận điều đó.

Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước có niềm lãng mạn giữa bản hùng ca
Nhà thơ Lê Anh Xuân trái tim yêu nồng cháy giữa đạn bom
Chuyện tình khó quên

Không chỉ gìn giữ một mối tình son sắt, nhà thơ Lê Anh Xuân còn nâng mối tình với Xuân Lan lên mức tôn thờ.

Nhà thơ Lê Anh Xuân trái tim yêu nồng cháy giữa đạn bom