Tỷ phú Bill Gates là niềm cảm hứng của những người trẻ có hoài bão, năng lực muốn chinh phục những mục tiêu cao nhất, Nhưng về chuyện tình yêu, cũng không thể khác được.
Nhà văn Lan Khai mực mài nước mắt cùng vợ hiền
Nhà văn Lan Khai đã phải đối mặt không ít cơ cực để sống và viết. Tuy nhiên, bù đắp cho túng bấn vật chất, nhà văn Lan Khai có được người vợ hiền thấu hiểu nghề nghiệp của ông và cùng ông chia sớt đắng cay ngọt bùi.
Lê Thiếu Nhơn - Xuân Hào | 20:00 24/06/2023
Nhà văn Lan Khai mực mài nước mắt cùng vợ hiền
Nhà văn Lan Khai tên thật Nguyễn Đình Khải, sinh ra và lớn lên ở thôn Vĩnh Lộc, Chiêm Hóa, Tuyên Quang. 14 tuổi, ông được gia đình gửi xuống Hà Nội ăn học. Sau khi tốt nghiệp Trường Bưởi (tức trường trung học Chu Văn An ngày nay), chàng thư sinh Nguyễn Đình Khải thi vào Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và ôm ấp giấc mộng “sẽ là một nhà tiểu thuyết”.
Với bút danh Lan Khai, ông đã để lại cho độc giả nhiều tác phẩm có giá trị như “Nước hồ Gươm”, “Cô Dung”, “Lầm than”, “Mực mài nước mắt”, “Mưa xuân”… Nhà phê bình Hải Triều đặc biệt đánh giá cao tác phẩm “Lầm than” của Lan Khai ngay khi cuốn sách vừa ra đời: “Một tác phẩm đem lại cho tôi một vài ý nghĩ về văn chương giữa một bầu không khí phảng phất mùi thuốc súng… Đọc xong quyển “Lầm than”, tôi thấy tác giả của nó mạnh dạn tiến lên trên con đường bênh vực cho giai cấp cần lao…”.
Đối với bạn đọc hôm nay, bức chân dung nhà văn Lan Khai đã bị phủ bụi bởi thời gian nghiệt ngã. Người ra chỉ có thể mường tượng về ông qua tác phẩm. Phó Giáo sư – Tiến sĩ Trần Mạnh Tiến, một người đã có nhiều công trình nghiên cứu về nhà văn Lan Khai, chia sẻ:
(Trích băng ghi âm Ý kiến Trần Mạnh Tiến)
Trong một hồi ức, người con trai thứ hai của nhà văn Lan Khai là ông Nguyễn Lan Phương đã cho biết: “Sinh thời, cha tôi là người trung thực, ngay thẳng, cởi mở, chân tình với mọi người, luôn chịu phần thua thiệt hơn; không bao giờ giành giật lợi lộc với người khác. Ở ông còn một thông lệ đẹp nữa trong tính cách sinh hoạt thường nhật, ấy là mỗi khi nhà văn viết xong một bài báo hay một cuốn sách được in, xuất bản, dù cho là nhuận bút lúc ấy nhiều hay ít, nhận được tiền là ông chia ra làm mấy khoản: Trước tiên là khoản dành mua sách, sau đó là khoản đưa cho vợ con, gia đình sinh sống hàng ngày (khoản này lớn hơn cả) còn một phần nhỏ để chi tiêu riêng cho bản thân, phòng khi gặp bằng hữu nào khó khăn thì giúp đỡ. Thông lệ này, cha tôi thực hiện rất nghiêm túc”.
Một tài liệu do thiếu tướng công an Hoàng Mai công bố, khẳng định: “Sau khi viết cuốn “Lầm than”, Lan Khai bị thực dân Pháp bỏ tù. Năm 1943, Lan Khai được tổ chức Đảng mời tham gia vào Hội Văn hóa Cứu quốc. Ông mất ở Lũng Cò, Sơn Dương, Tuyên Quang vào cuối mùa thu năm 1945, do một tên côn đồ ám sát”.
Rõ ràng, hành trình 39 năm trên dương gian của nhà văn Lan Khai phải nếm trải không ít bi kịch. Thế nhưng, ông lại có một gia đình khá êm ấm và hạnh phúc. Trước năm 1945 chưa có quy ước về chế độ một vợ một chồng, nên nhà văn Lan Khai cũng có hai người vợ. Người vợ đầu là bà Nguyễn Thị Duyên (sinh năm 1909, mất năm 1982) được nhà văn Lan Khai hỏi cưới vào năm 1925. Còn người vợ hai là bà Hà Thị Minh Kim (sinh năm 1909, mất năm1999) được nhà văn Lan Khai hỏi cưới năm 1927. Hai bà vợ có xuất thân và tính cách khác nhau, nhưng đều hết lòng thương yêu và tôn thờ người chồng văn sĩ.
Bà Nguyễn Thị Duyên là một phụ nữ thuần phác nông thôn, sinh cho nhà văn Lan Khai một người con trai là Nguyễn Lan Hương vào năm 1927. Khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Nguyễn Lan Hương xung phong ra mặt trận và hy sinh vào năm 1948.
Bà Hà Thị Minh Kim sinh cho nhà văn Lan Khai ba người con. Người con thứ nhất Nguyễn Lan Phương được sinh năm 1928, người con thứ hai Nguyễn Lan Hoa được sinh vào năm 1933 và người con thứ ba Nguyễn Lan Diệp được sinh vào năm 1936.
Nhà văn Lan Khai cư xử với hai bà vợ như thế nào? Người con trai Nguyễn Lan Phương chia sẻ: “Cha tôi cũng quan tâm chu đáo đến các mẹ tôi, mỗi lần đi xa về, ông chẳng ngại ngần mua sắm cho hai bà vợ từ cái khăn, cái yếm đẹp như nhau”.
Tại Tuyên Quang, gia đình nhà văn Lan Khai sống trong căn nhà lá năm gian hai trái ở xóm Gốc Nhội, gần đình Xuân Lôi. Năm 1934, gia đình nhà văn Lan Khai dọn xuống Hà Nội để thuận tiện cho ông theo đuổi sự nghiệp sáng tác. Nhờ được học hành, bà Hà Thị Minh Kim trở thành một “trợ bút” cho nhà văn Lan Khai.
Trong hồi ký có tên “Truyện lầm than của chúng tôi” được viết năm 1989, bà Hà Thị Minh Kim tường thuật khá chi tiết: “Ngày mới về Nhà báo Xích Điểu chống tiêu cực bỗng gặp lương duyên, gia đình tôi thuê một căn gác ở phố nhỏ trục ngang đường Phùng Hưng bây giờ, sau lại chuyển về thuê một căn nhà ở số 26 phố Châu Long tiện lợi hơn. Nhà tôi được ông Vũ Đình long đến tận nơi mời anh vào làm ở tòa báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy ở số 93 phố Hàng Bông. Nơi gia đình tôi ở được các bạn văn của Lan Khai gọi là “vũng Lương Sơn Bạc”. Bởi nơi đây có sự hội ngộ thường xuyên của nhiều văn nghệ sĩ Bắc Hà, già như cụ Tản Đà, cụ Ngô Tất Tố, cụ Nguyễn Văn Tố, trẻ hơn có bác Nguyễn Công Hoan, anh Vũ Trọng Phụng, anh Nguyễn Tuân, chú Trần Huyền Trân, chú Nguyên Hồng và chú Ngọc Giao…”.
Không chỉ làm “trợ bút” cho chồng, bà Hà Thị Minh Kim chăm sóc nhà văn Lan Khai rất chu đáo, như lời con trai Nguyễn Lan Phương nhận xét: “Mẹ tôi là người rất chiều chồng. Mỗi lần cha tôi đi hát cô đầu cùng các bác các chú văn sĩ, mẹ tôi luôn để ý xem nom quần áo dày dép, ca ra vát và đầu tóc của cha cho đẹp đẽ”.
Tuy nhiên, bà Hà Thị Minh Kim cũng có cái đáo để riêng khi sống với người chồng mơ mộng. Biết nhà văn Lan Khai thích thú với sự thần tượng của độc giả nữ chốn đô hội dành cho mình, bà Hà Thị Minh Kim đã dùng tên Bella Nhung để viết thư khen ngợi tác phẩm “Hột mận” của chồng và xin được hân hạnh làm quen. Nhà văn Lan Khai rất sung sướng và khoe với đồng nghiệp Nguyễn Vỹ về cái duyên kỳ ngộ sắp có được. Bella Nhung hẹn nhà văn Lan Khai vào 8 giờ tối thứ bảy ở hồ Trúc Bạch đoạn gần chùa Trấn Quốc.
Nhà văn Nguyễn Vỹ trong cuốn “Văn thi sĩ tiền chiến” đã viết về sự trêu ghẹo của bà Hà Thị Minh Kim đối với chồng, như sau: “Dưới ánh điện lờ mờ, chàng đã phân biệt màu sáo bordeaux và tay nàng đang cầm quyển “Hột mận” như đã dặn kỹ trong thư. Chàng đi nhè nhẹ đến gần… Tuy chàng chưa thấy mặt, nhưng dưới ánh đèn lờ mờ, bóng nàng uyển chuyển thướt tha tuyệt đẹp. Chàng đến sát bên cạnh, nghĩ rằng nàng mắc cỡ, nên chàng đánh bạo đặt bàn tay dịu dàng trên vai nàng, và giọng nói run run cảm động: “Em Bella Nhung?”. Nàng quay lại. Lan Khai hoảng hốt, biến sắc mặt ngay, bỗng giận dữ hét lên: “Mợ đứng chờ ai đây?”. Nàng, chính là… vợ Lan Khai, mỉm cười ngạo nghễ: “Thưa ông, em chờ ông Lan Khai, tác giả “Hột mận” ạ!”. “Mợ đánh lừa tôi hả?”, Lan Khai giận run cả người lên, nghẹn miệng nói không được nữa. Chàng bỏ vợ đấy, đi thật nhanh ra đường Quán Thánh gọi xe về nhà. Chị Lan Khai mỉm cười đắc chí, đủng đỉnh theo sau”.
Sau một thập niên bôn ba viết lách ở Hà Nội, đầu năm 1944, nhà văn Lan Khai đưa gia đình trở lại Tuyên Quang. Bà Hà Thị Minh Kim kể lại giai đoạn cuối đời của chồng mình: “Lan Khai dạy học, vẽ truyền thần, mở quán sách Lan Đình, tập trung vào chống đói. Chỉ vì trong quán sách Lan Đình có cất giấu mấy tờ Giải Phóng và Cứu Quốc, bất ngờ đêm 1/5/1944 bọn lính Nhật ập vào nhà tôi lục soát, đánh đập tôi và trói chặt Lan Khai đem hạ ngục ở đồn binh của chúng, đày đọa anh hơn 3 tháng trời. Tôi phải tìm cách hàng ngày đưa cơm và mật gấu vào trong trại. Vừa tra tấn vừa mua chuộc không được, lúc anh gần chết thì chúng mới lôi anh vứt ra đường, toàn thân thâm tím, áo quần rách nát, không lê nổi bước chân…”.
Cũng nhờ bà Hà Thị Minh Kim trân trọng và lưu giữ di sản của chồng, mà nhiều tác phẩm và tư liệu về Lan Khai đã được tái bản lại trong những năm gần đây, giúp công chúng nhận diện được một nhà văn thao thức với thời cuộc và lương tri.
Nhà văn Lan Khai mực mài nước mắt cùng vợ hiền
Nhà văn Lan Khai đã phải đối mặt không ít cơ cực để sống và viết. Tuy nhiên, bù đắp cho túng bấn vật chất, nhà văn Lan Khai có được người vợ hiền thấu hiểu nghề nghiệp của ông và cùng ông chia sớt đắng cay ngọt bùi.
Lê Thiếu Nhơn - Xuân Hào
Các chương trình
Nhà thơ Hữu Loan tạm biệt cô bé học trò Lê Đỗ Thị Ninh để làm công tác tuyên truyền cứu quốc. Ông đã viết những bài thơ thời sự phục vụ cách mạng.