ĐBSCL nằm ở cuối dòng chảy của sông Mekong trước khi đổ ra Biển Đông và một phần nhỏ ra Vịnh Thái Lan. Đây là một vùng đất thấp và bằng phẳng, cao độ trung bình phổ biến từ 1 đến 2 m so với mực nước biển, được bồi tụ bởi phù sa của sông Mekong.
Hiện nay, biến đổi khí hậu, nước biển dâng và phát triển thượng lưu đều được xem là những thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững vùng ĐBSCL.
Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng, tác động của biến đổi khí hậu và đặc biệt là nước biển dâng sẽ có tác động rất lớn đến ĐBSCL. Theo nghiên cứu của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nếu chỉ xét mực nước tĩnh trung bình tăng 1m do nước biển dâng thì 39% diện tích đồng bằng có thể bị ngập.
Nghiên cứu chi tiết hơn, có xét đến chế độ thủy động lực, ảnh hưởng của biên độ dao động thủy triều, thì diện tích có thể bị ngập do triều cường và nước biển dâng 1m có thể lên đến 69% diện tích đồng bằng.
Trong khi đó, Oxfam đã nêu ra một số hiểm họa mà ĐBSCL sẽ phải đối mặt khi chịu tác động của biến đổi khí hậu. Đầu tiên, đến khoảng năm 2100, mực nước biển có thể dâng lên trong khoảng 30cm đến 1m. Nhiều khả năng nước biển sẽ dâng lên mức 1m hơn, lúc đó thì 90% diện tích của ĐBSCL có thể bị ngập lụt hàng năm.
Thứ hai, đến năm 2030, khả năng nước biển dâng có thể làm cho khoảng 45% diện tích đất của khu vực bị nhiễm mặn hoàn toàn và mùa vụ bị thiệt hại do lũ lụt.
Thứ ba, lưu lượng nước vào mùa khô của sông Mekong được dự đoán sẽ giảm đi từ 2 - 4% vào năm 2070, đây là một yếu tố khác góp phần vào hiện tượng nhiễm mặn và thiếu nước.
Trước tiên, cần phải nhìn nhận, vùng xây dựng dự án thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé là vùng rất đặc biệt, đặc thù, hội tụ nhiều yếu tố điển hình nhất của vùng ĐBSCL trong đời sống, sản xuất.
Khu vực này vừa chịu tác động bởi chế độ bán nhật triều biển Đông và cả nhật triều biển Tây. Mùa mưa ở đây thường diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10 với lượng mưa chiếm hơn 90%, mùa khô chỉ chiếm lượng mưa nhỏ hơn 10%. Nguồn nước ngọt chủ yếu được cấp từ sông Hậu và tích trữ (trong mùa mưa) từ các sông kênh đổ ra biển Tây qua cửa sông Cái Lớn – Cái Bé.
Vùng dự án có địa hình thấp (cao độ <0,5m chiếm 52% tổng diện tích), xung quanh cao, ở giữa thấp tạo thành lòng chảo, trũng khó tiêu thoát, thường bị ngập úng khi mưa lớn, lũ lớn và triều cường cao.
Đa số dân cư vùng dự án sống bằng nghề nông, lâm nghiệp và thủy sản, với lao động thủ công là chủ yếu. Bên cạnh đó, hầu hết các tuyến sông trong vùng dự án đều là các tuyến giao thông thủy rất quan trọng, nối từ sông Hậu xuống bán đảo Cà Mau.
Có thể thấy, thiệt hại do thiên tai (lũ, hạn, mặn, lốc) trong những năm vừa qua đối với ĐBSCL nói chung và vùng dự án nói riêng rất lớn.
Trong đó, 2020 được xem là năm ĐBSCL phải chịu thiệt hại kỷ lục do hạn mặn, thời điểm đó, lượng mưa thấp hơn 84% so với trung bình nhiều năm. Bên cạnh đó, dưới tác động của các đập thượng nguồn, lượng nước đổ về hạ lưu sông Mekong đã giảm 19% so với tháng 2/2016.
Ngoài ra, do nước lũ và lượng phù sa suy giảm trên sông Mekong khiến cho các khu vực cửa sông đã bị xói mòn sâu hơn, tạo điều kiện cho độ mặn tăng cao. Mực thuỷ triều trung bình ở khu vực ven biển ĐBSCL có khuynh hướng tăng cao do biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Hậu quả là nước mặn đã lấn sâu đến 130 km vào trong đất liền và kênh rạch của Đồng bằng sông Cửu Long. 5 trong số 12 tỉnh rơi vào tình huống khẩn cấp trước thiên tai (Kiên Giang, Bến Tre, Tiền Giang, Cà Mau và Long An) và gây ảnh hưởng đến lượng nước ngọt cung cấp cho hàng triệu người dân nơi đây.
Theo Văn phòng thường trực ban chỉ đạo Quốc gia về Phòng chống thiên tai, mặc dù có kinh nghiệm ứng phó trong mùa hạn mặn 2016 và nhiều địa phương đã tích cực đề phòng, thiệt hại vẫn xảy ra đáng kể. Hàng ngàn hecta lúa đã bị thiệt hại do nước mặn. Tại Bến Tre, hơn 20.000 ha cây ăn quả được đặt trong tình trạng “báo động đỏ”. Nhiều vườn cây ăn trái đã chết cành, lá khô, trái rụng do thời gian dài không có nước tưới.
Cụ thể, xâm nhập mặn năm 2019 - 2020 đã ảnh hưởng đến 10/13 tỉnh ĐBSCL, ranh giới độ mặn 4gam/lít đã làm 42,5% diện tích tự nhiên của toàn vùng bị ảnh hưởng, tương đương 1.688.600 ha, cao hơn năm 2016 là 50.376 ha. Cà Mau là địa phương bị ảnh hưởng nặng nhất với 16.500ha/176.700 ha diện tích gieo trồng trong vụ mùa bị ảnh hưởng, trong đó diện tích bị thiệt hại trắng từ 70% trở lên là 14.000 ha.
Đối với vụ đông xuân 2019-2020, ở ĐBSCL có sáu tỉnh (Trà Vinh, Tiền Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang, Long An và Cà Mau) bị ảnh hưởng của hạn, xâm nhập mặn với tổng diện tích khoảng 41.900 ha, trong đó, có 26.000 ha thiệt hại mất trắng và Trà Vinh là tỉnh có diện tích thiệt hại nhiều nhất với 14.300 ha.
Trên cây ăn trái, hạn và xâm nhập mặn đã làm khoảng 6.650 ha tại sáu tỉnh (Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh và Sóc Trăng) thiếu nước tưới, giảm năng suất, khoảng 355 ha bị thiệt hại mất trắng.
Hạn, xâm nhập mặn đã làm 1.241 ha cây màu tại các tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng và Cà Mau thiếu nước tưới, trong đó có 541 ha bị thiệt hại mất trắng. Nuôi trồng thủy sản tại Bến Tre, Tiền Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau cũng bị thiệt hại hơn 8.715 ha, trong đó nghề nuôi cá truyền thống thiệt hại 1.234 ha, nuôi tôm nước lợ 4.811 ha.
Hạn, xâm nhập mặn cũng làm cho khoảng 96.000 hộ, tương đương khoảng 430.000 nhân khẩu đang sinh sống tập trung tại 7 tỉnh ven biển (Bến Tre, Sóc Trăng, Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Long An và Trà Vinh) thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng, trong đó có 20.600 hộ thuộc vùng cấp nước từ công trình cấp nước tập trung, 75.400 hộ thuộc vùng cấp nước hộ gia đình.
Nguyên nhân thiếu nước sinh hoạt mùa khô là do nguồn nước tại các công trình cấp nước tập trung tại các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau và Bến Tre bị cạn kiệt vì xâm nhập mặn vào sâu. Nguồn nước mặt tại các tỉnh Sóc Trăng, Long An, Cà Mau và Bạc Liêu bị nhiễm mặn, nguồn nước ngầm suy giảm.
Chưa kể, trong mùa hạn, mặn năm 2020, tình trạng thiếu nước kéo dài làm mực nước trên các kênh trục xuống thấp, nhiều tuyến kênh rạch khô cạn, dẫn đến tình sạt lở bờ kênh, đường giao thông và nhà dân sống ven kênh. Vùng ngọt hóa Gò Công (Tiền Giang) xảy ra 112 điểm sạt lở, tổng chiều dài 15.920 m làm thiệt hại về nhà, đất ở, đất trồng cây lâu năm và hoa màu của 108 hộ dân.
Tại Long An, hạn, mặn đã làm sạt lở làm khoảng 200 m đê bao và đường nông thôn ven sông tại các huyện Tân Trụ, Cần Giuộc, Thạnh Hóa. Tại Cà Mau, hạn, xâm nhập mặn đã làm sụt lún chín điểm bờ kênh và nhiều tuyến đường giao thông ở huyện Trần Văn Thời, thành phố Cà Mau và huyện U Minh, với tổng chiều dài sụt lún hơn 24 km; đê biển Tây bị sụt lún tại đoạn Đá Bạc-Kênh Mới với tổng chiều dài 240 m.
Tại Kiên Giang, hơn 1,5 km đê bao và lộ giao thông nông thôn huyện U Minh Thượng cụng bị sụt lún nghiêm trọng. Tỉnh Vĩnh Long cũng đã xuất hiện 14 điểm sạt lở, tại An Giang có chín điểm sụp lún, sạt lở đất bờ sông, kênh, rạch...
Trước đây, ĐBSCL nói chung và các địa phương trong vùng dự án nói riêng gặp 2 vấn đề rất lớn. Một là, sự bấp bênh, mất ổn định trong sản xuất nông nghiệp. Thời tiết cực đoan, diễn biến bất hường, xâm nhập mặn... không tuân theo quy luật làm cho kế hoạch sản xuất của người dân luôn luôn bị động, nhiều khi bị tổn thất rất lớn do không thể thích ứng kịp.
Hai là, bị động trong phòng tránh, giảm nhẹ rủi ro thiên tai. Dễ nhận thấy, đó là tình trạng thiếu nước trầm trọng về mùa khô, kết hợp với lún sụt đất; về mùa mưa tập trung với cường độ cao, triều cường, nước biển dâng sẽ gây ngập úng nặng nề.
Do đó, hiệu quả của dự án sẽ giúp cho đời sống người dân và sản xuất giải quyết 2 vấn đề này. Công trình có quy trình vận hành chủ động, sẽ góp phần hạn chế tác động của biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan (diễn biến bất thường, xâm nhập mặn, hạn hán), suy giảm nguồn nước ngọt do mất cân đối về mùa mưa, chế độ dòng chảy bị đảo lộn do sự điều tiết của các quốc gia thượng nguồn.
Bên cạnh đó, như nhận xét của Văn phòng thường trực ban chỉ đạo Quốc gia về Phòng chống thiên tai, công trình giúp người dân chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng tránh và giảm nhẹ rủi ro thiên tai (ngập lụt, xâm nhập mặn). Giảm thiểu ngập lụt do tác động kép (biến đổi khí hậu, mưa tập trung, triều cường) và sụt lún đất; Kiểm soát xâm nhập mặn.
Hệ thống này kết hợp tuyến đê biển Tây tạo thành cụm công trình chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng, chống thiên tai, giảm ngập úng khi mặt đất hạ thấp (do lún sụt đất); giảm thiệt hại do thiên tai (hạn, mặn) vào mùa khô cho các mô hình sản xuất trong vùng; góp phần cấp nước ngọt trong mùa mưa cho vùng sản xuất mặn, ngọt huyện An Minh, An Biên với những năm mưa ít và tiêu thoát cho vùng hưởng lợi của dự án trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Riêng đối với tỉnh Kiên Giang, ngay khi công trình hoàn thành, tạm thời đưa vào khai thác sử dụng trong mùa khô năm 2021, việc vận hành cống Cái Bé đã giúp cho tỉnh không cần phải xây dựng hơn 130 đập tạm ngăn xâm nhập mặn trên các kênh nhánh để phục vụ sản xuất. Không những tiết kiệm ngân sách nhà nước mà còn giảm thiểu mất đất, ô nhiễm môi trường.
Đầu năm 2022, khi nước mặn bắt đầu xâm nhập vào các tỉnh ven biển vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Bộ NN-PTNT đã chỉ đạo đơn vị quản lý vận hành cống Cái Lớn – Cái Bé điều tiết nước cho vùng bán đảo Cà Mau. Vừa giúp giữ ngọt cho vùng trồng lúa, vừa cung cấp nước mặn có độ mặn phù hợp cho vùng nuôi tôm.
Ông Trần Thanh Toàn – Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi Hậu Giang chia sẻ, vào mùa khô hàng năm, mặn xâm nhập sâu từ 10 – 20km từ hướng sông Cái Lớn. Tuy nhiên, những tháng đầu năm 2022, trên địa bàn tỉnh gần như không khi nhận mặn xâm nhập. Nhờ đó, hàng ngàn hộ dân trong vùng an tâm sản xuất. Không chỉ phòng chống thiên tai, công trình còn tạo điểm nhấn du lịch cho tỉnh Kiên Giang khi thu hút nhiều du khách đến tham quan.
Việc kết hợp giữa giải pháp công trình và phi công trình đến nay cũng thu được nhiều hiệu ứng rất tích cực. Nông dân được tập huấn kỹ thuật, hỗ trợ các mô hình như lúa-tôm, lúa- màu, khóm- thuỷ sản. Bà con rất phấn khởi khi sản xuất không bị tác động bởi hạn, mặn mà thu nhập lại ổn định hơn.
Như lời nhận xét của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan thì, hệ thống thuỷ lợi Cái Lớn – Cái Bé đóng góp quan trọng vào quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp vùng bán đảo Cà Mau nói riêng và ĐBSCL nói chung. Để hệ thống thuỷ lợi phát huy được tác dụng, Bộ sẽ nghiên cứu mở rộng vùng hưởng lợi của dự án, hoàn thiện quy trình vận hành. Đồng thời, xây dựng quy trình vận hành hệ thống thuỷ lợi vùng ĐBSCL theo hướng an toàn. Song song với đó, các giải pháp phi công trình, nâng cao năng lực vận hành, cải thiện sinh kế cho người dân cũng được quan tâm đồng bộ.
Chia sẻ về yếu tố “thuận thiên’, GS.TS Trần Đình Hòa, Chủ nhiệm Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé giải thích, ĐBSCL đang thể hiện rõ nét nhất với 3 hệ sinh thái và đi cùng là 3 mô hình sản xuất chính thích ứng với từng hệ sinh thái: nước ngọt; ngọt mặn luận phiên và nước lợ; nước mặn.
Thực tế cho thấy, các mô hình sản xuất đã cơ bản tận dụng được lợi thế tài nguyên nguồn nước, tài nguyên đất và dần đi vào ổn định, thể hiện sự phù hợp, thích ứng với các hệ sinh thái tự nhiên.
Trước đây, các công trình thuỷ lợi dùng để điều tiết nguồn nước thường chỉ ngăn nước mặn, giữ nước ngọt nhưng với dự án thuỷ lợi này, việc điều tiết mặn ngọt sẽ được làm linh động để phù hợp cho sản xuất nông nghiệp tại địa phương.
Nhiệm vụ của dự án vẫn đảm bảo nguyên tắc tôn trọng các mô hình sản xuất hiện có, tôn trọng các hệ sinh thái tự nhiên kể cả trước mắt và lâu dài. Dự án chỉ mang tính hỗ trợ và can thiệp để giúp ổn định sản xuất khắc phục tình trạng bấp bênh do các tác động tự nhiên và nhân sinh gây ra. Bên cạnh đó, góp phần thích ứng và phòng tránh thiên tai một cách chủ động.
Theo ông, “thuận thiên” được hiểu là nắm vững các quy luật của thiên nhiên để có tác động khoa học, hợp lý, không can thiệp thô bạo đối với tự nhiên... Mục tiêu là khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển bền vững.
Minh chứng rõ nét phần nào thể hiện qua công nghệ đập trụ đỡ của công trình. Thay vì ngăn sông, giải tỏa 1 – 2 xã ven bờ như cách làm thủy lợi truyền thống, đây là công nghệ thi công lần lượt từng trụ đỡ ngay trên dòng sông. Bên cạnh hiệu quả tài chính, lợi ích không tính được bằng tiền ở đây là tiết kiệm đáng kể thời gian thi công, không làm ảnh hưởng đến giao thông thủy của vùng, không làm xáo trộn đời sống, sản xuất của người dân.
“Thuận thiên” là không đi trái lại với quy luật của tự nhiên nhưng đồng thời phải tận dụng, phát huy hết lợi thế của “mẹ thiên nhiên” để phát triển. Dự án Cái Lớn – Cái Bé đã “chủ động kiểm soát nguồn nước”, bao trùm vượt lên cả tác động của biến đổi khí hậu, đảm bảo thuận thiên kể cả trong trường hợp chịu tác động bất lợi do con người gây ra, đặc biệt là ảnh hưởng từ quá trình phát triển ở thượng nguồn sông Mekong.
Công trình Cái Lớn - Cái Bé là một minh chứng về sự đầu tư thực hiện những giải pháp chiến lược về phòng chống thiên tai ở Đồng bằng Sông Cửu Long "Xây dựng, nâng cấp và hoàn thiện hệ thống đe biển, đê bao, bờ bao, công trình kiểm soát lũ, ngăn mặn..."
Trong khi đó, theo Cục Quản lý Xây dựng công trình (Bộ NN-PTNT), một điều đặc biệt ý nghĩa là với công trình lớn, có tính chất kỹ thuật đặc biệt phức tạp như vậy nhưng toàn bộ công tác từ thiết kế, thi công, quản lý đều do người Việt Nam thực hiện. Công tác bồi hoàn giải phóng mặt bằng có khối lượng tương đối lớn, với gần 300 hộ bị ảnh hưởng và hơn 100 hộ hiến đất để xây dựng tuyến đê nhưng được sự đồng thuận rất cao của người dân, thời gian thực hiện được rút ngắn tối đa.
Cùng với đó trong suốt quá trình thi công (24 tháng) thì đã có đến 8 tháng khu vực thi công bị ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19. Không những vậy, do ảnh hưởng của hạn mặn lịch sử năm 2019-2020, việc đắp các đập tạm tại kênh Ông Hiển cũng đã ảnh hưởng đến tuyến đường thủy vận chuyển vật liệu đến công trình.
Thêm vào đó, từ cuối năm 2020 giá vật liệu tăng đột biến, nhất là thép và cát xây dựng… nhưng với sự chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo, sự nỗ lực cao độ của các đơn vị, cá nhân tham gia thực hiện, toàn bộ dự án đã hoàn thành, nhiều công trình thuộc dự án vượt tiến độ, đảm bảo chất lượng.
Cục Quản lý Xây dựng công trình cũng cho rằng việc hoàn thành dự án cũng tạo sự thay đổi trong tư duy và nhận thức đối với công tác thuỷ lợi khu vực ven biển ĐBSCL, đó là từ tư duy "ngăn mặn" sang "kiểm soát nguồn nước".
Theo đó, khái niệm "thuận thiên" đối với nông nghiệp đã được minh chứng rõ nét bằng công trình "thích ứng có sự kiểm soát" này.
Tuy nhiên, GS.TS Trần Đình Hòa cũng lưu ý rằng, kiểm soát ở mức độ nào, thời điểm nào, quá trình “uốn nắn” tự nhiên phải được thực hiện một cách rất thận trọng, khoa học và cân nhắc một cách toàn diện và bền vững. Quá trình triển khai, đơn vị tư vấn cũng nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các chuyên gia.
Là một nhà khoa học, GS Hòa cho rằng, các ý kiến phản biện mang tính cảnh báo cao, đặc biệt về bảo vệ môi trường, hệ sinh thái đã được tiếp thu và xem xét điều chỉnh ngay từ khâu thiết kế, làm sao để hạn chế tối đa những tác động bất lợi trong quá trình vận hành sau này.