Dự án VnSAT thay đổi diện mạo ngành hàng cà phê Tây Nguyên

Đến nay, Dự án VnSAT đã đi gần hết chặng đường. Nhìn lại Dự án này, thấy ngay những chuyển biến rõ rệt, giúp thay da đổi thịt ngành hàng cà phê Tây Nguyên.

Trong suốt thời gian qua, Dự án VnSAT không những giúp người dân được hưởng lợi như giảm chi phí, nâng cao sản lượng, đầu tư cơ sở hạ tầng, máy móc, giúp ngành hàng cà phê phát triển bền vững mà còn làm thay đổi nhận thức của nhà quản lý, nông dân về một nền sản xuất trách nhiệm. Dự án VnSAT không chỉ giúp người dân, tổ hợp tác, HTX được hưởng lợi mà từ đây đã lan toả ra nhiều vùng sản xuất cà phê khác…

Thời gian qua, nông dân các tỉnh Tây Nguyên nhận được sự hỗ trợ của Dự án VnSAT trong hợp phần tái canh cà phê. Đến nay, các diện tích tái canh đều có sự phát triển vượt trội, năng suất, chất lượng cao, góp phần giúp người dân cải thiện nguồn thu nhập.

Cùng với việc hỗ trợ giống cà phê chất lượng cao, thích ứng với điều kiện tự nhiên, chịu hạn, kháng bệnh…, Dự án VnSAT cũng hướng dẫn người dân thực hiện các mô hình trồng xen vào vườn cà phê các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như sầu riêng, bơ, mít, mắc ca để nâng cao thu nhập.

Các mô hình tái canh đều phát triển tốt, tỷ lệ cây sống trên 90%, sâu bệnh hại giảm mạnh so với các mô hình tái canh truyền thống. Năng suất cá phê tái canh của Dự án VnSAT cũng cho năng suất vượt trội, đạt từ 4 – 4,5 tấn/ha.

Trước khi tái canh, cơ quan chức năng đã tập trung lấy mẫu đất để phân tích tuyến trùng nên đã hạn chế được dịch bệnh. Hiện nay, ngoài các mô hình tái canh do Dự án VnSAT hỗ trợ, nhiều hộ dân nhận thấy quy trình mới đã mang lại hiệu quả nên cũng tự thực hiện theo quy trình của VnSAT để mở rộng diện tích tái canh.

Ví dụ như tỉnh Đăk Lăk, từ năm 2018 đến 2020, Dự án VnSAT đã hỗ trợ người dân tái canh được 11.129/11.271 ha, bằng 98,7% kế hoạch. Trong đó, tỷ lệ đạt cao nhất là Thị xã Buôn Hồ, huyện Krông Năng, Ea H’leo và Krông Pắk.

Toàn bộ diện tích tái canh được thực hiện theo các biện pháp canh tác như trồng cây che bóng, chắn gió, đáp ứng quy trình của Bộ NN-PTNT ban hành, nhờ vậy tỷ lệ cây sống cao, phát triển tốt và cho năng suất cao. Từ kết quả tái canh cà phê, Dự án VnSAT đã tạo sự lan toả, giúp nhiều nông dân ở các vùng vệ tinh học hỏi, làm theo.

Không những hỗ trợ về giống, phân bón, kỹ thuật…, Dự án VnSAT đã triển khai hoạt động hỗ trợ nông dân về vốn tín dụng phục vụ tái canh. Đây là chương trình thiết thực, giúp người trồng cà phê vực dậy ổn định sản xuất trong bối cảnh giá cả thị trường sụt giảm.

Nhờ nguồn vốn tín dụng của Dự án VnSAT, hàng ngàn hộ nông dân trồng cà phê ở Tây Nguyên được tiếp cận ngồn vốn để tái canh cà phê, những diện tích tái canh đều đảm bảo kỹ thuật và cho năng suất cao.

Ông Lê Quốc Tuấn, Phó Giám đốc Ban quản lý Dự án VnSAT tỉnh Gia Lai cho biết, nếu như trước đây, người dân trồng cà phê phải vay vốn từ các ngân hàng thương mại với lãi suất cao thì nay thông qua Dự án VnSAT, lãi suất vay thấp hơn rất nhiều.

Đặc biệt, khi người dân vay vốn từ dự án VnSAT sẽ được ân hạn trong 5 năm đầu không phải trả lãi và gốc, đến khi thu hoạch mới phải trả ngân hàng. Với gói tín dụng này, người dân được vay tối đa 320 triệu đồng, trong đó bao gồm cả 110 triệu đồng đầu tư hệ thống tưới tiết kiệm.  Trong giai đoạn 2019 - 2020, tỉnh Gia Lai có 573 hộ dân tái canh cà phê trên tổng diện tích hơn 1.100 ha được vay nguồn vốn tín dụng từ Dự án VnSAT. Theo đó, các ngân hàng cho vay được hơn 197 tỷ đồng, đạt 99,7% kế hoạch được giao.

 

Trước tình trạng thời tiết khô hạn ở Tây Nguyên, thời gian qua, Dự án VnSAT đã hỗ trợ người dân xây dựng các mô hình tưới nước tiết kiệm theo hình thức nhỏ giọt hoặc phun mưa tại gốc. Các mô hình đi vào thực tiễn đã giúp người dân duy trì sản xuất cà phê ổn định trong mùa khô kéo dài, đồng thời tiết giảm được lượng nước, chi phí nhân công, chi phí phân bón…

Dù đang thời gian đỉnh điểm mùa khô nhưng vườn cà phê của gia đình anh Siu Bốp ở làng Mnông Yố 2, xã Ia Ka, huyện Chư Păh (Gia Lai) vẫn tươi tốt, những lá xanh mơn mởn vẫn lay động trong nắng gió.

Kể từ khi được Dự án VnSAT hỗ trợ lắp đặt hệ thống tưới nước tiết kiệm, những vất vả của gia đình anh Siu Bốp mới được hóa giải. Với hệ thống tưới phun mưa tại gốc, hiện nay gia đình anh Bốp chỉ cần 1 - 2 ngày là đã tưới xong cho cả khu vườn hàng nghìn gốc cà phê.

Nguồn nước từ hệ thống tưới được phun đều rồi thẩm thấu xuống nền vườn tạo ra lớp mùn ẩm suốt cả mùa khô. Cũng từ đây, lượng nước tưới được giảm tối thiểu, chi phí công tưới không còn phải bỏ ra nên giá thành sản xuất vì thế giảm xuống.

Theo ông Hoàng Danh Chuyền (xã Hà Mòn, huyện Đăk Hà, Kon Tum), trung bình, chi phí đầu tư cho hệ thống tưới tiết kiệm ở vào khoảng 80 - 90 triệu đồng/ha. Đối với những hộ dân được Dự án VnSAT hỗ trợ, nguồn chi phí này được Dự án hỗ trợ đến 50% giúp nông dân chủ động trong đầu tư.

Ông Chuyền cho biết, Dự án VnSAT hỗ trợ đầu tư hệ thống tưới tiết kiệm cho người dân đã góp phần mang lại hiệu quả cao trong sản xuất, giúp vườn cà phê nâng cao năng suất, giá trị. Minh chứng cho thấy, trước đây chưa sử dụng hệ thống tưới tiết kiệm, 1 ha cà phê chỉ cho năng suất 15 tấn tươi, còn hiện tại năng suất đạt trên 20 tấn.

Hệ thống tưới nước phun mưa tại gốc đã mang lại rất nhiều lợi ích. Với hệ thống này, người trồng cà phê có thể tiết kiệm chi phí nhân công, vừa có thể bón phân, thúc đẩy sự phát triển của cây. Trước đây, việc bón phân cho cà phê chỉ được thực hiện vào mùa mưa. Do vậy, có những lúc phân vừa bón xuống thì hôm sau xảy ra mưa lớn nên bị rửa trôi gần hết. Điều này gây thất thoát lượng lớn phân bón, gây tổn hao chi phí mà cây trồng lại không được đảm bảo chế độ dinh dưỡng.

Khi lắp đặt hệ thống tưới phun mưa, các hộ nông dân sử dụng phân bón hòa vào nước rồi bật máy cho phân bón theo nước đến tận gốc cây. Việc bón phân hình thức này tiện ở chỗ có thể bón cho cây bất cứ lúc nào, mùa nào trong năm. Lượng phân bón được chuyển đến gốc cây cũng vừa đủ để thẩm thấu vào đất cho cây hấp thụ nên vừa tiết kiệm được lượng phân, vừa giúp cây phát triển tốt nhất.

Việc bón phân thông qua hệ thống tưới tiết kiệm tạo ra sự đồng đều nên cây trong vườn cũng phát triển đồng đều và cho năng suất ổn định. Ngoài ra, chủ vườn có thể bón phân bất cứ lúc nào, không nhất thiết phải chờ bón vào mùa mưa như cách làm truyền thống. Trước những lợi ích mà hệ thống tưới tiết kiệm mang lại, nhiều hộ dân trồng cà phê nằm ngoài Dự án VnSAT cũng học hỏi, đầu tư để phát triển.

Trong suốt chặng đường hoạt động của mình, Dự án VnSAT đã hỗ trợ nông dân, hợp tác xã, tổ hợp tác, doanh nghiệp kết nối với nhau tạo thành chuỗi từ khâu sản xuất đến sơ chế, chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Điều này góp phần thúc đẩy sự phát triển ngành hàng cà phê nói riêng, thúc đẩy sự phát triển về kinh tế xã hội nói chung.

Thông qua các hoạt động của Dự án VnSAT, đã hỗ trợ các tổ chức nông dân sản xuất cà phê theo hướng bền vững. Dự án còn hỗ trợ một số tổ chức nông dân đầu tư cơ sở hạ tầng như nhà kho, sân phơi và máy móc thiết bị sơ chế cà phê, giúp sản phẩm cà phê của các tổ chức nông dân nâng cao năng suất và chất lượng, đáp ứng nhu cầu kinh doanh và xuất khẩu của các doanh nghiệp. Từ đó hình thành chuỗi liên kết trong ngành cà phê từ sản xuất đến tiêu thụ theo hướng bền vững.

Đến nay, hầu hết các tổ chức, cá nhân sản xuất cà phê vùng Dự án đều có sự liên kết với các doanh nghiệp thu mua, chế biến, xuất khẩu cà phê. Ví như tại Đăk Lăk, có mô hình HTX Ea Kmat - Hòa Đông (huyện Krông Păc) liên kết với Công ty TNHH DAKMAN Việt Nam; HTX Ea Tân (huyện Krông Năng) liên kết với Công ty Xuất nhập khẩu 2-9 (SIMEXCO); HTX Quyết Tiến (huyện Cư M’gar) liên kết với Công ty Cổ phần Đầu tư Xuất nhập khẩu Đăk Lăk (INEXIM).

Tại Gia Lai, các hợp tác xã, nông dân hưởng lợi từ Dự án đã liên kết với Công ty Vĩnh Hiệp…

 

Với các hoạt động hỗ trợ, trong những năm qua, Dự án VnSAT đã có tác động to lớn đến phát triển ngành hàng cà phê ở vùng Tây Nguyên. Cùng với đó, tư duy canh tác của người dân cũng được nâng cao, góp phần tạo ra sự phát triển bền vững.

Thời gian qua, Dự án VnSAT đã có tác động lớn trong việc phát triển chuỗi giá trị ngành hàng cà phê. Dự án đã kêu gọi thành lập các hợp tác xã và hỗ trợ các tổ chức nông dân về cơ sở hạ tầng như nhà kho, sân phơi, đường giao thông, hỗ trợ về trang thiết bị, máy móc để sản xuất, chế biến cà phê nhằm nâng cao giá trị sản phẩm.   

Tại tỉnh Đăk Nông, trong giai đoạn từ năm 2015 - 2020, Dự án VnSAT được triển khai trên địa bàn 6 huyện/thành phố của tỉnh với diện tích cà phê khoảng 107 nghìn ha. Trong thời gian này, các hoạt động hỗ trợ của Dự án đã giúp người dân có điều kiện đầu tư, ổn định sản xuất. Các hạng mục hỗ trợ của Dự án đã giúp người dân ổn định sản xuất, giúp các tổ chức nông dân tập trung vào tạo chuỗi giá trị cho ngành hàng.

Dự án VnSAT đã giúp các địa phương Tây Nguyên xây dựng, hình thành được một sống vùng cà phê bền vững. Từ các hoạt động đào tạo, tập huấn, người dân, các thành viên HTX đã thay đổi về quan điểm cũng như tập quán canh tác,

Đặc biệt, sau tập huấn, người dân ý thức được việc giảm được lượng nước tưới cho cây cà phê thông qua hệ thống tưới tiết kiệm. Việc bón phân cũng được thực hiện một cách hiệu quả nhờ việc áp dụng đúng đối tượng, đủ lượng và hạn chế các loại thuốc bảo vệ thực vật độc hại. Việc thu hái cũng được thực hiện theo hình thức hái tuyển chọn quả chín để nâng cao chất lượng nhân.

Tại các tỉnh Tây Nguyên, Dự án VnSAT với các hạng mục đầu tư, hỗ trợ về liên kết sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, nhà kho, khu sơ chế, chế biến đã góp phần thúc đẩy sự phát triển một cách bài bản, quy mô. Đến nay, với sự hỗ trợ này, nhiều hợp tác xã, tổ chức nông dân đã chủ động từ sản xuất đến chế biến và kết nối ra thị trường. Tư duy sản xuất nông sản vì thế dần được thay thế bằng tư duy sản xuất hàng hóa, tư duy kinh tế.

Ông Nguyễn Văn Châu, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Lâm Đồng: Dự án VnSAT rất hiệu quả và thiết thực

Việc triển khai thực hiện dự án VnSAT tại địa phương là rất hiệu quả và thiết thực với nhu cầu, định hướng phát triển ngành hàng cà phê tại tỉnh. Đây là Dự án cấp quốc gia, được thiết kế, chỉ đạo xuyên suốt từ cấp Trung ương đến từng địa phương, huy động đội ngũ tư vấn kỹ thuật từ các cục, vụ, viện, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Sở NN-PTNT các tỉnh… để hỗ trợ kỹ thuật cho Dự án.

Tư duy của nông dân trong vùng triển khai Dự án VnSAT đã dần thay đổi qua từng năm, nông dân đã thấy được hiệu quả khi áp dụng đúng quy trình kỹ thuật được khuyến cáo, ví dụ như không bón nhiều, bón thừa lượng phân đạm hóa học, tăng cường phân hữu cơ… để giảm chi phí đầu tư nhưng vẫn đảm bảo nhu cầu, lượng phân cần thiết cho cây phát triển.

Hiểu biết của nông dân ngày càng sâu rộng, sẵn sàng áp dụng cái mới hiệu quả hơn, mạnh dạn đầu tư công nghệ tưới tiết kiệm, đầu tư máy sấy, máy sơ chế cà phê… để nâng cao hiệu quả đầu tư, hiện đại hóa trong nông nghiệp theo đúng định hướng, chiến lược phát triển cà phê của tỉnh.

Ông Nguyễn Hoài Dương, Giám đốc Sở NN-PTNT Đăk Lăk: VnSAT tạo ra các chuỗi liên kết sản xuất cà phê bền vững

Các hoạt động hỗ trợ của Dự án VnSAT đã giúp các tổ chức nông dân sản xuất cà phê theo hướng bền vững, đồng thời tạo dựng cơ sở hạ tầng để tiến tới nâng cao năng lực sản xuất, nâng năng suất và chất lượng cà phê để đáp ứng nhu cầu kinh doanh, xuất khẩu. Các chuỗi liên kết sản xuất cà phê cũng được hình thành góp phần xây dựng nền nông nghiệp bền vững, lâu dài.

Dự án VnSAT đã đóng góp một phần rất lớn cho ngành cà phê của tỉnh nói riêng và sự phát triển kinh tế nông nghiệp của Đăk Lăk nói chung. Nếu như giai đoạn 2006 – 2010,  tốc độ tăng GDP của tỉnh bình quân đạt 11 - 12%/năm thì đến giai đoạn 2016 - 2020 đã tăng lên 12,5 - 13,5%/năm, quy mô nền kinh tế năm 2020 của tỉnh đã cao gấp 1,5 - 1,6 lần so với năm 2015.

Ông  Đoàn Ngọc Có, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Gia Lai: VnSAT đã thúc đẩy chế biến, gia tăng giá trị cho cà phê

Qua 6 năm triển khai thực hiện, Dự án VnSAT đã thu được những kết quả quan trọng, tạo ra những thay đổi quyết định trong thực tế sản xuất cà phê bền vững của tỉnh Gia Lai cũng như trong những lĩnh vực liên quan.

Thực tiễn sản xuất cà phê đã được định hướng đi vào sản xuất bền vững. Thay vì sản xuất tự phát, đơn lẻ, hiện nay chính quyền địa phương cùng người sản xuất cà phê đã hướng tới việc sản xuất có tổ chức thông qua việc thành lập các HTX sản xuất cà phê bền vững. Trong đó, người sản xuất cà phê đã ý thức được tầm quan trọng về nâng cao chất lượng sản phẩm cùng thương hiệu.

Cụ thể, các HTX đã được Dự án VnSAT trợ giúp xây dựng mã truy xuất nguồn gốc sản phẩm (mã QR), trên cơ sở áp dụng thành công các tiêu chí sản xuất quốc tế như 4C, Rain foreest, Organic...

Trước Dự án, sản phẩm cà phê do người dân tiêu thụ trên địa bàn tình chủ yếu là cà phê tươi. Hiện nay, thành phần sản phẩm cà phê đã thay đổi căn bản với định hướng tăng cường đầu tư chế biến sản phẩm có giá trị gia tăng. Theo đó, tỷ trọng cà phê nhân xô theo công nghệ chế biến ướt, cà phê bột, cà phê hoà tan đã không ngừng tăng lên thông qua việc thực hiện hợp đồng liên doanh sản xuất, thu mua, chế biến, tiêu thụ sản phẩm giữa các HTX với các doanh nghiệp chế biến cà phê trong tỉnh như Công ty Vĩnh Hiệp, Ngọc Chương...

Ông Lê Văn Đức, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ NN-PTNT: VnSAT tạo ra bộ giống tốt, quy trình canh tác tiên tiến, là động lực chính để tái canh, là cơ sở để phát triển vùng nguyên liệu cà phê xuất khẩu

Để phát triển ngành cà phê Tây Nguyên, cũng cần chú trọng vấn đề an ninh nguồn nước. Trong đó, Dự án VnSAT đã hỗ trợ những mô hình tưới tiết kiệm. Song song đó, chúng ta xây dựng được vườn cà phê đa tầng, đa tán, với 3 tầng cây. Tầng trên cùng là cây che bóng, tầng thứ 2 là cà phê và tầng cuối cùng là thảm thực vật để giảm sử dụng thuốc BVTV hóa học trong sản xuất cà phê.

Hiện nay, ngành cà phê là ngành đi đầu trong việc chứng nhận chất lượng truy xuất nguồn gốc và xuất khẩu sang các thị trường cao cấp. Đây là cái mà ngành cà phê rất cố gắng trong thời gian vừa qua.

Việc chúng ta tạo được bộ giống tốt có năng suất cao, thích ứng với biến đổi khí hậu và rải vụ là rất quan trọng. Trong một thời gian dài, Bộ NN-PTNT đã đầu tư và chọn, công nhận giống cà phê vối, cà phê chè khá hoàn chỉnh. Chương trình tái canh cà phê của Dự án VnSAT là cơ hội để chúng ta đưa giống có năng suất tốt vào những vùng nguyên liệu mới để sản xuất. Ngoài những giống năng suất cao, Cục Trồng trọt cũng tiếp tục nghiên cứu đưa ra những giống cà phê chịu hạn và rải vụ để hướng đến ngành nông nghiệp bền vững.

World Bank: Dự án VnSAT là dự án hình mẫu về hợp tác quốc tế trong nông nghiệp

World Bank đánh giá Dự án VnSAT là dự án hình mẫu về hợp tác quốc tế trong nông nghiệp. Từ Dự án VnSAT, chúng ta cũng đã xác định việc sản xuất đối với lúa gạo và cà phê nói riêng, các ngành hàng khác của nông nghiệp nói chung luôn luôn phải hướng tới mục tiêu phải phát triển bền vững. Không chỉ tăng năng suất mà phải đi đôi với giảm giá thành, giảm chi phí sản xuất… Từ việc giảm chi phí sản xuất, sẽ có tác động giúp bảo vệ môi trường tốt hơn, đặc biệt là việc giảm được phân bón, thuốc BVTV trong trồng trọt.

Đây là cách tiếp cận rất đúng, và cũng không phải là điều gì quá xa xôi, mà bản thân chúng ta cũng có thể tổng kết thành các gói kỹ thuật để đưa vào sản xuất, kết hợp với việc tổ chức sản xuất của nông dân, hỗ trợ hợp tác xã/tổ chức nông dân để liên kết khép kín trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm

“Dự án VnSAT đã hỗ trợ rất nhiều tổ chức nông dân, HTX về cơ sở hạ tầng, đường giao thông, sân phơi… Do vậy, các địa phương cần cố gắng phát huy vai trò cơ sở hạ tầng này trong việc liên kết chuỗi giá trị, đảm bảo phát triển lâu dài, hiệu quả”.

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Quốc Doanh: VnSAT đã làm thay đổi bức tranh về cà phê Việt Nam

Dự án VnSAT đã giúp thay đổi bức tranh về sản xuất cà phê của Việt Nam. Dự án giúp Việt Nam nghiên cứu về cà phê rất bài bản, có bộ giống cà phê được Viện Khoa học Nông lâm nghiệp Tây Nguyên lai tạo cho năng suất rất cao. Trong khuôn khổ Dự án, Bộ NN-PTNT đã xây dựng và hoàn thành 2 đề án rất quan trọng là quy hoạch về sản xuất cà phê đặc sản và cà phê cảnh quan. 

Khi triển khai, từng địa phương sẽ lựa chọn những địa điểm, bộ giống, quy trình canh tác, chế biến để đưa cà phê đặc sản thành thương hiệu. Từ đó, cà phê đặc sản giúp đa dạng sản phẩm và nâng cao vị thế của Việt Nam. Với đề án cà phê cảnh quan, sẽ giúp các địa phương phát triển cà phê một cách hài hòa, bền vững.

Ngành hàng cà phê của Việt Nam phần lớn trồng vào những năm 1980 - 1990, hiện đã già cỗi nên năng suất thấp. Do đó, năm 2014, Bộ NN-PTNT đặc ra mục tiêu đến năm 2020 sẽ tái canh 120.000 ha, tuy nhiên đến thời điểm này, đã tái canh được 162.000 ha, trong đó đã có sự hỗ trợ rất lớn từ Dự án VnSAT.

Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan: Dự án VnSAT giúp ngành cà phê đi xa bền vững

Dự án VnSAT giúp hình thành ngành cà phê Tây Nguyên để chúng ta đi xa một cách bền vững hơn. Bộ NN-PTNT sẽ tiếp tục dự án VnSAT và một số dự án phát triển cà phê bền vững khác. Đối với ngành cà phê Tây Nguyên, Bộ NN-PTNT sẽ phát triển ngành hàng logictic cà phê để tạo ra cây cà phê có giá trị gia tăng hơn, có nhiều sản phẩm tinh tế, vượt trội hơn thời gian vừa qua. Từ đó tạo ra chuỗi ngành hàng để tăng giá trị cho cây cà phê.

Một trong những điểm nhấn mới do VnSAT tạo ra đó là xây dựng mô hình cà phê cảnh quan. Đây là một hướng tiếp hoàn toàn mới hướng đến phát triển ngành hàng cà phê Tây Nguyên một cách bền vững.

Xã Đăk Krong là một trong 5 địa điểm ở Tây Nguyên được chọn thực hiện dự án thí điểm phát triển cà phê bền vững theo phương pháp tiếp cận cảnh quan. Đây là sáng kiến của VnSAT nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu và cải thiện các vấn đề tồn tại trong phương pháp canh tác cà phê hiện nay ở nhiều địa phương.

Dọc con đường dẫn đến làng Đăk Mong xã Đăk Krong, huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai là hàng muồng chắn gió cao lớn, bên dưới bạt ngàn cà phê, bơ, sầu riêng xanh mướt. Dưới lòng hồ Đăk Krong quanh năm đầy ắp nước, nơi đây HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Đăk Krong đang thả 18 lồng bè cá các loại.

Ông Trịnh Khắc Dương, Giám đốc HTX Nông nghiệp và dịch vụ Đăk Krong cho biết, dự án cà phê cảnh quan xung quanh lòng hồ Thủy điện Đăk Đoa được VnSAT phê duyệt đầu tư xây dựng nhằm hướng đến mô hình sản xuất bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái gắn với phát triển du lịch.

Để hiện thực hóa mô hình cà phê cảnh quan, dự án VnSAT đã đầu tư các tuyến đường giao thông nội đồng để tạo nên vùng cảnh quan cho khu vực sản xuất cà phê. Sau khi thực hiện xong các tuyến đường, sẽ tiến tới thực hiện các hạng du lịch cũng như khôi phục lại những bản sắc văn hóa của địa phương, qua đó tạo công ăn việc làm cho người dân

Mô hình cà phê cảnh quan do dự án VnSAT triển khai đã mang lại hiệu quả rất lớn. Theo đó đã góp phần giảm 14% lượng phân bón hóa học, 17% lượng nước tưới; 11% chi phí sản xuất và 10% lượng CO2 phát thải ra môi trường. 100% lượng cà phê được sản xuất trong vùng mô hình được thu mua với mức giá cao hơn giá thị trường.

Tiến sĩ Phan Việt Hà - Phó Viện trưởng Viện Khoa Học kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên cho biết, mô hình cà phê cảnh quan mà dự án VnSAT triển khai thời gian qua là xung hướng đi đúng nhất là trong thời điểm biến đổi khí hậu như hiện nay. Phát triển cà phê cảnh quan cần có sự cam kết của các bên. Bản thân cảnh quan không phải là cà phê bền vững nhưng đây là phương pháp tiếp cận đến việc phát triển cà phê bền vững.

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam:

Dự án VnSAT đã tác động rất lớn đối với ngành hàng cà phê và kinh tế nông nghiệp địa phương. Các địa phương cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng đề án vùng nguyên liệu bền vững đạt chuẩn.

Dự án VnSAT đã đạt được những kết quả rất quan trọng, đồng thời tác động rất lớn đối với ngành hàng cà phê và kinh tế nông nghiệp địa phương. Các địa phương cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng đề án vùng nguyên liệu bền vững đạt chuẩn. Để làm được việc này, các địa phương phải xây dựng và phát triển các tổ khuyến nông cộng đồng truyền thông và phát triển vùng nguyên liệu; hỗ trợ, tư vấn phát triển các HTX, kết nối thị trường cho nông dân; đẩy mạnh kết nối, liên kết chuỗi giữa các doanh nghiệp với HTX, nông dân sản xuất, chế biến, tiêu thụ cà phê.

Để xây dựng được vùng nguyên liệu, Bộ NN-PTNT sẽ hỗ trợ đầu tư một phần đường giao thông, nhà kho, sân phơi, silo chứa cà phê... Vùng nguyên liệu sẽ thúc đẩy liên kết chuỗi cà phề bền vững, từ đó tạo sự lan tỏa ra các địa phương khác để có vùng nguyên liệu đạt chuẩn phục vụ trong nước và xuất khẩu.

Trang thông tin có sự đồng hành của Dự án chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam - VnSAT

Mai Phương – Minh Hậu
Trọng Toàn
M.Hậu - M. Quý - T. Anh
Minh Quý