Thành tích này thực sự rạng rỡ từ góc độ tổng đầu tư công cho Bộ NN-PTNT chỉ chiếm có 4,4% ngân sách cho các ngành Trung ương (mà cấp chậm và vướng thủ tục cũng giải ngân chưa hết 100% kế hoạch), mặt khác, riêng cơn bão số 3 (Yagi) đã gây ra mất mát to lớn cho nông nghiệp miền Bắc, chiếm tới 45% tổng thiệt hại của kinh tế chung.
Những thành công có được là nhờ sự tích lũy, chuẩn bị trong nhiều năm của bà con nông dân nâng cao kỹ thuật canh tác, từng bước thân thiện với môi trường, nhờ Nhà nước bền bỉ xây dựng cơ sở hạ tầng nhất là thủy lợi, nhờ đội ngũ doanh nhân tích lũy đầu tư hệ thống chế biến nông sản, nhờ cố gắng bền bỉ đàm phán thương mại và mở rộng thị trường của các Bộ, ngành, nhờ nỗ lực vận động đổi mới tư duy của cán bộ và nhân dân, nhờ xử lý, hỗ trợ kịp thời của Nhà nước và toàn dân khi gặp thiên tai… Bà con nông dân, đội ngũ doanh nhân, cán bộ nhân viên ngành nông nghiệp và các ngành phối hợp, lãnh đạo chính quyền các cấp đã tiếp tục lội ngược dòng, lập nên kỳ tích mới, vượt mọi khó khăn khách quan của thiên tai, dịch bệnh và biến động thị trường, khắc phục những trở ngại chủ quan của thể chế đang chuyển mình đổi mới.
Phút giao thừa, nhìn lại tình hình sẽ nhận diện được những khó khăn thách thức phải vượt qua và cơ hội triển vọng cần vươn tới. Nói về nỗ lực truyền thống thì có việc ngành lúa gạo năm nay phá kỷ lục xuất khẩu cả về sản lượng 9 triệu tấn với giá trị 5,7 tỷ USD. Chất lượng gạo Việt Nam đã cải thiện khá cơ bản. Phần lớn lúa được trồng đều là giống xác nhận, giá gạo xuất khẩu bình quân đã lập mặt bằng cao nhất thế giới, trên 600 USD/tấn. Kỹ thuật sản xuất lúa giảm phát thải bắt đầu trở nên gần gũi với nông dân.
Trong khi khoa học công nghệ tiến bộ rõ thì tổ chức, thể chế vẫn chuyển biến chậm. Sự bó buộc của sản xuất nhỏ chưa được tháo gỡ, kết nối chuỗi giá trị chưa hoàn chỉnh, vì thế giá gạo thị trường lên cao nhưng các doanh nghiệp kinh doanh vẫn không lãi lớn, thậm chí có lúc còn điêu đứng, việc xây dựng vùng chuyên canh lúa chất lượng cao một triệu hecta vẫn còn nhiều thách thức.
Nói về điển hình mới xuất hiện thì nổi bật là quả sầu riêng. Là một cây dài ngày, kỹ thuật không đơn giản, không dễ trồng, thế nhưng từ mức năm 2022 kim ngạch xuất khẩu mới có 421 triệu USD trên quy mô sản xuất hẹp, ngay sau khi Nghị định thư giữa Việt Nam và Trung Quốc có hiệu lực và được cấp mã số xuất khẩu, chỉ sau 1 năm, kim ngạch xuất khẩu sầu riêng 2023 đã tăng 5 lần, lên hơn 2,2 tỷ USD. Năm 2024, sản lượng sầu riêng lên hơn 1,2 triệu tấn, xuất khẩu 3,2 tỉ USD. Diện tích trồng tăng vọt từ 32.000ha năm 2016 lên hơn 151.000 ha năm 2024. Tuy nhiên, sự tăng trưởng nhanh chóng này là không vững bền. Việc chỉ đạo sản xuất, kiểm soát dư lượng hóa chất, giám sát chất lượng quả, giám sát mã vùng trồng và cơ sở đóng gói, bảo vệ nguồn lợi đất… là yêu cầu gấp rút trước tình trạng số lượng các thông tin cảnh báo gian lận thương mại và an toàn thực phẩm đang tăng lên nhanh dần từ các thị trường quốc tế quan trọng.
Thành công và yếu kém đang đan xen trong bức tranh nông nghiệp Việt Nam. Trong khi ngành trồng trọt đang vật lộn vươn lên như ví dụ về lúa gạo và sầu riêng nêu trên thì ngành chăn nuôi tiếp tục phát triển, cung cấp đủ thực phẩm cho nhu cầu tiêu dùng, trong khi một số dịch bệnh, nhất là dịch tả lợn Châu Phi vẫn rình rập đe dọa. Ngành thủy sản phát triển tốt, xuất khẩu đạt đích 10 tỷ USD trong khi “thẻ vàng” của EU vẫn treo lơ lửng. Ngành lâm nghiệp đạt kỷ lục hơn 17 tỷ USD xuất khẩu lâm sản kèm theo những thành tích đáng khích lệ về trồng rừng cung cấp trên 70% nguyên liệu gỗ cho chế biến, trong khi vẫn còn đó những thách thức về bảo vệ và khôi phục rừng tự nhiên, duy trì quỹ đất rừng, bảo toàn và phát triển đa dạng sinh học.
Suy cho cùng, những khó khăn, cản trở vẫn là những vấn đề được nêu lên trong quá trình tái cơ cấu nông nghiệp và chậm được xử lý: Vướng mắc về tổ chức thể chế dẫn đến sản xuất nhỏ lẻ, kinh doanh đứt đoạn; cơ chế chưa tạo động lực phục vụ tốt cho cán bộ, chưa thúc đẩy khoa học công nghệ phát triển; thiếu vốn đầu tư làm cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu vốn tín dụng cản trở sản xuất phát triển; thiếu các biện pháp quản lý rủi ro như bảo hiểm, kho tàng dự trữ…; chưa quản lý tốt và làm chủ việc cung ứng các vật tư đầu vào nhất là giống, thức ăn, thuốc… đảm bảo chất lượng và hiệu quả; chậm phát triển hệ thống logistics, hệ thống vận tải hàng hóa; chưa hình thành hệ thống thông tin thị trường đáng tin cậy với người sản xuất, kinh doanh; chưa có một nền công nghiệp chế biến đủ mạnh để phát huy hết giá trị nông sản Việt Nam…
Phải chăng đã đến lúc xử lý các cản trở trên bằng ba đột phá chiến lược của Đại hội Đảng XIII: Hoàn thiện đồng bộ thể chế, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng kết cấu hạ tầng. Gần đây, nhiều đường cao tốc, sân bay được xây dựng, sắp tới là đường sắt tốc độ cao.
Về vĩ mô, nông nghiệp, nông thôn cần cảng nước sâu và hệ thống vận tải biển chở nông sản cho Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, cần hệ thống đường sắt chở hàng vào nội địa Trung Quốc và kết nối với châu Âu. Về vi mô, cần xây dựng đồng ruộng, cần quản lý nước cho cả trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản; cần cơ giới hóa toàn bộ sản xuất và kết nối thuận tiện với hệ thống, kho tàng, bến bãi logistics. Về đầu tư nhân lực, đã phổ cập giáo dục phổ thông, đào tạo nghề cho lao động, đào tạo chính trị cho cán bộ. Cần làm là đào tạo nông dân chuyên nghiệp, hình thành đội ngũ chuyên gia và cán bộ kỹ thuật lành nghề, dạy quản trị công cho cán bộ và tạo nên đội ngũ quản lý doanh nghiệp, phát triển cộng đồng bài bản.
Đặc biệt là về đổi mới thể chế, tổ chức. Năm 2025 sẽ là năm đánh dấu đột phá tinh gọn bộ máy, cán bộ, hoàn tất khởi đầu quyết liệt từ cuối năm 2024. Bộ NN-PTNT hợp nhất với Bộ Tài nguyên và Môi trường trong khi toàn bộ hệ thống tổ chức của ngành từ Trung ương đến địa phương cùng đổi mới. Gần 40 năm trước, khi tư liệu sản xuất hợp tác xã cũ được trao cho hộ gia đình, mậu dịch quốc doanh được cổ phần hóa thì người xã viên theo tiếng kẻng hợp tác “rong công, phóng điểm”, lớp “cường hào mới” các ban quản trị hợp tác xã, bà mậu dịch viên hống hách bỗng thay đổi.
Ngày hôm nay cũng thế, anh cán bộ đòi xin cho để “bôi trơn”, ông nông dân trồng rau sạch để ăn và rau không kiểm soát để bán, nhà khoa học viết bài nghiên cứu để bỏ vào ngăn kéo… sẽ phải thay đổi. Cũng con người ấy nhà xưởng ấy, cửa hàng ấy, phương tiện ấy sẽ hiệu quả hơn, tốt đẹp hơn nhờ thay đổi cơ chế và tổ chức.
Như mọi cuộc cách mạng, làn sóng đổi mới thứ nhất mở ra cơ chế thị trường ở nước ta bên cạnh thành công kỳ diệu cũng phải đương đầu với những vấn đề kéo dài khó sửa như đất đai nông lâm trường, tình trạng tham ô, lãng phí nghiêm trọng…
Bước vào thời kỳ mới sắp tới, chúng ta vừa phải khắc phục những yếu kém cũ và còn phải chủ động ngăn chặn những tai họa mà các nước xã hội chủ nghĩa khác khi đổi mới thể chế kinh tế đã không giải quyết nổi, như tình trạng chảy máu chất xám, đánh mất công nghệ, sụp đổ hệ thống nghiên cứu; xuất hiện những khoảng trống về dịch vụ công như khuyến nông, bảo vệ vật nuôi cây trồng bỏ người sản xuất vào trạng thái bơ vơ với thị trường đầy rủi ro, người kinh doanh cạnh tranh bất bình đẳng với các công ty nước ngoài mạnh mẽ; đô thị hút mạnh nguồn lực, bỏ lại một nông thôn hoang vắng.
Bài học đổi mới trong và ngoài nước, kinh nghiệm sáp nhập 5 - 7 Bộ, ngành thành Bộ NN-PTNT mạnh mẽ cho thấy cốt lõi quan trọng nhất là xác định được chức năng và nhiệm vụ mới để sắp xếp lại các đơn vị không còn vai trò và hình thành những đơn vị cần cho hoạt động của ngành, theo tinh thần “nhiệm vụ tạo ra cơ quan chứ không phải cơ quan giữ lấy nhiệm vụ”. Ngày đó, công tác khai hoang, xây dựng kinh tế mới, phát triển nông trường, kinh doanh lương thực… đã ra đi để thay bằng công việc mới, tổ chức mới về xây dựng chính sách, khuyến nông, quản lý tài nguyên…
Hiện nay, trước bối cảnh rủi ro và bất định cần phát triển các tổ chức bảo vệ sản xuất (thú y, bảo vệ thực vật, phòng chống thiên tai, bảo vệ nguồn lợi thủy sản…); phục vụ nhu cầu nhân dân mà chưa đáp ứng được như phát triển khoa học công nghệ, phát triển thị trường, phát triển tổ chức sản xuất… Các tổ chức này phải có lực lượng đồng bộ trên dưới, được trang bị đủ phương tiện theo yêu cầu.
Trong khi các cơ quan quản lý nhà nước Trung ương tập trung làm quy hoạch, chiến lược, chính sách, đối ngoại, chủ động về ngân sách được giao thì các cơ quan quản lý ở địa phương cần được phân cấp mạnh mẽ quyền hạn gắn với trách nhiệm. Chỗ nào Nhà nước rời ra không quản lý và hỗ trợ thì phải trao lại cho địa phương hoặc các tổ chức cộng đồng sản xuất kinh doanh, tự quản, tự chủ và tự chịu trách nhiệm. Phát huy quyền làm chủ của các tổ chức cộng đồng như hợp tác xã, hiệp hội doanh nghiệp, ban quản lý phát triển nông thôn, các nghiệp đoàn ngành nghề để xóa đi mọi khoảng trống quản lý, các bóng râm trách nhiệm trong hỗ trợ sản xuất kinh doanh và huy động nội lực, phát huy trí tuệ sáng tạo và tinh thần làm chủ, biến người dân thành chủ thể của quá trình phát triển.
Yếu tố quan trọng nhất trong cuộc cách mạng thể chế là con người. Nếu cán bộ có mức lương đủ sống và điều kiện làm việc thuận lợi; nếu nhà khoa học được hưởng lợi từ tiến bộ kỹ thuật đưa vào sản xuất; nếu nhà quản lý được thăng thưởng theo hiệu quả của đơn vị; nếu nông dân gắn bó với nhau trong hợp tác xã thì được giao đất, có cơ sở hạ tầng, thiết bị máy móc…; nếu doanh nhân và hợp tác xã kết nối với nhau trong chuỗi giá trị để được bảo hiểm sản xuất, cho vay theo chuỗi…; nếu doanh nhân đầu tư khoa công nghệ, bảo vệ môi trường, thu hút lao động dân tộc… thì được miễn thuế, được hỗ trợ đầu tư, được cho thuê đất sạch miễn, giảm phí; nếu thị trường nước ngoài nhận đầu tư vùng chuyên canh, chuyển giao công nghệ mới, gắn kết với doanh nghiệp trong nước thì được cung cấp dài hạn lương thực, thực phẩm theo đúng thị hiếu, đảm bảo tiêu chuẩn yêu cầu… Chính sách đúng sẽ tạo ra động lực biến tư duy mới thành hành vi đúng.
Tổ chức, thể chế mới sẽ thay đổi quan hệ giữa các đối tác: Cán bộ quản lý thành người phục vụ nhân dân, cán bộ khoa học thành người cung cấp kỹ thuật, nông dân nhỏ liên kết thành nhà sản xuất lớn, doanh nghiệp và hợp tác xã thành đối tác chia sẻ lợi nhuận và rủi ro, ngân hàng và cơ quan khoa học thành người đầu tư vào sản xuất, khách hàng nước ngoài trở thành nhà đầu tư dài hạn vào vùng chuyên canh.
Các hợp tác xã sẽ đảm bảo vật tư đầu vào, gom sản phẩm đầu ra và cung cấp dịch vụ sản xuất cho nông dân, các hiệp hội doanh nghiệp sẽ cấp thông tin, chuyển công nghệ cho thành viên, giúp kiểm soát tiêu chuẩn nông sản, hiệp hội và hợp tác xã cùng kiểm soát thị trường và đặt hàng cơ quan nghiên cứu. Hiệp hội ngành nghề sẽ kiểm soát nguồn lợi sinh học. Trong hệ sinh thái tổ chức đó, cơ quan Nhà nước gọn mà mạnh: Vệ sinh thực phẩm đảm bảo, thương hiệu quốc gia được bảo vệ, “thẻ vàng” IUU xóa ngay, không còn tham nhũng và nông nghiệp Việt Nam sẽ tăng trưởng gấp 2, gấp 3 hiện nay.
Kỷ nguyên mới sẽ chứng kiến sự phát triển vị thế của nông nghiệp - nông dân - nông thôn. Gần 40 năm đổi mới thành công của đất nước đã chứng kiến 4 lần đất nước bên bờ khủng hoảng kinh tế. Trong những thời điểm sống còn ấy, nông nghiệp đã vươn lên gánh vác an ninh lương thực, giảm lạm phát, giảm thất nghiệp, cân đối cán cân thương mại - khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế và ổn định xã hội.
Theo quy luật, càng công nghiệp hóa thì nông nghiệp càng giảm khả năng cạnh tranh. Giáo sư Peter Timmer của đại học Stanford (Hoa Kỳ) đã tổng kết rằng, khi tỷ trọng GDP nông nghiệp trong tổng GDP quốc gia xuống dưới 20% thì sẽ là lúc chính sách đang lấy đi của nông nghiệp phải chuyển sang trợ cấp lại cho nó. Ở Việt Nam, tỷ lệ này đã xuống 12% nhưng đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp chỉ khoảng 5 - 6%, chỉ 1% doanh nghiệp hoạt động trong nông nghiệp. Trong khi đó, hầu hết các nước trong vùng đều tiến hành trợ cấp cho nông nghiệp.
Gần đây, nghị quyết Trung ương 19 đã đổi mới hoàn toàn tư duy khi khẳng định nông nghiệp là “lợi thế của quốc gia”. Một sự đánh giá ít có với các ngành khác trong nước và cả với quốc tế. Thực tế đã chứng minh điều đó, kim ngạch xuất khẩu nông sản năm 2024 của Việt Nam đạt mức kỷ lục 62,5 tỷ USD, vượt xa kỷ lục mới lập 57 tỷ USD của ngành xuất khẩu vũ khí nổi tiếng của Nga hay doanh thu 46 tỷ USD ngành xuất khẩu máy bay lừng danh của Mỹ năm nay.
Trong nền kinh tế Việt Nam, tuy mới bằng nửa giá trị xuất khẩu phần cứng và điện tử nhưng nông sản Việt Nam đã khẳng định thế mạnh của mình với mức đóng góp tới 70% trong tổng xuất siêu của cả nước. Nếu xét về các giá trị như mức đóng góp nội địa, hiệu quả sử dụng đồng vốn, tác động lan tỏa trong nền kinh tế, vai trò quan trọng với môi trường, năng lực tạo ra việc làm cho xã hội thì khó có ngành nào có thể so sánh được. Nông nghiệp có thể trở thành động lực kinh tế quan trọng nếu được chăm chút, được đầu tư như nước Nga với công nghiệp vũ khí, như nước Mỹ với công nghiệp máy bay và như chính nước ta với điện tử tin học.
Nông nghiệp không chỉ là bệ đỡ ổn định và động lực kinh tế mà còn trực tiếp tác động đến triển vọng đất nước có về đích kịp vào năm 2030 và 2045 hay không! Dù công nghiệp và dịch vụ có nâng được tăng trưởng kinh tế Việt Nam lên nhanh đến đâu, thì chuyển biến xã hội vẫn là biến số quan trọng khác quy định khả năng hoàn thành hiện đại hóa, công nghiệp hóa. Trong 15 - 20 năm tới, 9 - 10 triệu hộ nông dân Việt Nam phải rút xuống còn 20 - 30%; 17,5 triệu lao động nông nghiệp chỉ để lại 30%, còn phải chuyển thành trí thức, nhà kinh doanh, cán bộ hay những lao động công nghiệp, dịch vụ... Trong 100 triệu dân sẽ có 25% chuyển từ nông thôn ra đô thị. Nếu nông nghiệp và kinh tế nông thôn không phát triển tốt, đông đảo lao động và dân cư không đủ sức tự chuyển đổi, thì năng suất lao động thấp, quá tải thành phố lớn, bất bình đẳng xã hội, già hóa và chênh lệch giới tính… sẽ cản trở phát triển như hàng loạt nước đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình hiện nay.
Như vậy nông nghiệp vừa là trụ đỡ vừa là lợi thế, nông dân và nông thôn vừa là tài nguyên vô giá, nguồn lực vô địch lại vừa có thể là quả tạ trì trệ ảnh hưởng lớn đến tiến trình đi lên giàu mạnh, hùng cường của đất nước ta. Phát triển nông thôn là nhiệm vụ chiến lược phải tập trung ưu tiên. Mục tiêu xây dựng nông thôn mới không phải chỉ vì mục tiêu “không bỏ lại một ai” mà đó chính là cách thức phát huy nguồn lực quan trọng nhất của đất nước - con người - cả về lao động và trí tuệ với khoảng 60% dân số cả nước đang sống ở nông thôn; đó là cách khai thác tài nguyên tự nhiên giàu có trên địa bàn chính của đất nước, huy động cái nôi sâu rộng nhất của văn hóa dân tộc, đó là việc củng cố địa bàn phòng thủ bao trùm cả quốc gia - đó là quê hương và gia đình chúng ta. Thế kỷ thứ 21 không còn chỗ cho việc áp dụng mô hình công nghiệp hóa, công nghiệp và đô thị bằng việc hy sinh nông nghiệp và nông thôn trước, bù đắp sau như thế kỷ 19 nữa.
Chúng ta còn 15 - 20 năm cuối cùng mà cánh “cửa sổ vàng” lao động trẻ còn mở. Khả năng học hỏi, sức lao động kiên cường, tinh thần sáng tạo của con người Việt Nam đang là lợi thế ít quốc gia nào trong vùng có được. Hãy nhanh chóng chuyển 60% lao động nông thôn đang hoạt động phi chính thức thành lao động chính thức: Dù làm việc cho bất ngành nghề nào họ cũng cần được tổ chức trong công đoàn, nghiệp đoàn, được đào tạo, được hỗ trợ, có bảo hiểm, có lương hưu, được số hóa. Tại các tỉnh công nghiệp lớn, cần xây dựng các thành phố có dịch vụ phúc lợi cần thiết và sinh kế để tích hợp cư dân nông thôn đã rời khỏi nông nghiệp vào xã hội đô thị, tạo điều kiện chuyển giao và hỗ trợ cho hàng triệu người vượt qua khoảng giáp ranh giữa lao động nông nghiệp và phi nông nghiệp. Đây chính là nội dung mới gắn kết giữa phát triển nông thôn và phát triển đô thị. Đây chính là định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam có lợi thế nông nghiệp không phải chỉ vì có thiên nhiên thuận lợi, có rừng vàng biển bạc. Nước ta là một trong những nước có quy mô đất đai trên đầu người vào loại ít nhất trên thế giới nhưng từ 15 năm trước, cố Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn đã nói đến mục tiêu xuất khẩu 100 tỷ USD. Sức mạnh đặc biệt của nông nghiệp Việt Nam là con người - nông dân tài giỏi, doanh nhân kiên cường, cán bộ tâm huyết. Ít nơi nào trên thế giới mà ruộng nông dân luôn có năng suất cao hơn các viện nghiên cứu. Ít doanh nhân nước nào mà chế biến nông sản thành công như doanh nghiệp lúa gạo, thủy sản, hạt điều, đồ gỗ Việt Nam. Không phải lãnh đạo nhiều nước bám sát các vùng thiên tai chỉ đạo khắc phục hậu quả như ở mình. Chỉ cần tổ chức tốt, cơ chế hiệu quả, nông nghiệp nông dân Việt Nam chắc chắn sẽ mở ra những trang diệu kỳ trong kỷ nguyên mới của đất nước.