Hiện nay, nguồn lợi thủy sản biển có xu hướng ngày càng suy giảm. Chủ trương phải đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ sản để bù đắp sản lượng khai thác bị giảm xuống, phát triển nuôi trồng thủy sản song song với bảo vệ môi trường sinh thái, đa dạng sinh học, trong đó có nuôi biển ngày càng cấp thiết, có vai trò quan trọng trong phát triển nuôi trồng thủy sản nói chung.
Để làm được điều đó, cần có sự đầu tư mạnh mẽ của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, đặc biệt là các doanh nghiệp tâm huyết và có nguồn lực dồi dào. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại thực trạng doanh nghiệp đầu tư gặp khó trong quá trình cấp phép, phê duyệt hồ sơ.
Ông Ngô Hùng Dũng, Giám đốc Công ty CP Thủy sản Tân An (TX Quảng Yên, Quảng Ninh) cho biết, hiện công ty đang gặp khó khăn trong việc cấp phép quyền sử dụng mặt nước để hoạt động, do địa điểm đơn vị đầu tư là vùng ngoài 6 hải lý, tại vùng biển đảo Ngọc Vừng (huyện Vân Đồn). Đây là khu vực mà Bộ NN-PTNT mới có thẩm quyền cấp phép.
“Đối với doanh nghiệp chúng tôi thì phải được cấp phép rõ ràng mới dám đầu tư. Hiện chúng tôi đã nghiên cứu kỹ về tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến nuôi biển tại khu vực đó và sẵn sàng đầu tư. Chúng tôi mong muốn thủ tục nhanh chóng hoàn thiện để có thể đi vào hoạt động xây dựng, sản xuất”, ông Dũng chia sẻ.
Tập đoàn Nhựa Super Trường Phát là một trong những đơn vị đã có sự đầu tư mạnh mẽ vào lĩnh vực nuôi biển. Hiện đơn vị này đang triển khai các hạ tầng cho nuôi trồng thủy sản từ vật liệu xanh bền vững là HDPE và composite tại các tỉnh ven biển như Hải Phòng, Khánh Hòa, Kiên Giang, Ninh Thuận và đặc biệt là ở Quảng Ninh.
Bà Nguyễn Thị Hải Bình, Tổng Giám đốc Tập đoàn Nhựa Super Trường Phát chia sẻ về những vướng mắc mà doanh nghiệp đang gặp phải. Cụ thể, doanh nghiệp đã đi cùng với các Sở, ban, ngành của tỉnh Quảng Ninh nhiều lần để khảo sát khu vực đầu tư nhưng đến nay hồ sơ đã bị trả về và có thông báo hồ sơ chưa phù hợp.
“Quảng Ninh là tỉnh tiên phong cho việc xúc tiến đầu tư vào phát triển nuôi biển nên cần nhanh chóng tìm ra công thức, giải pháp tháo gỡ khó khăn, sát cánh cùng doanh nghiệp”, bà Bình nhấn mạnh.
Ngoài Quảng Ninh, các địa phương sát biển trên cả nước cũng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong phát triển nuôi biển công nghiệp hiện nay. Đơn cử như Phú Yên là tỉnh nằm trong vùng có tần suất bão, áp thấp nhiệt đới khá cao, do đó việc phát triển nuôi biển xa bờ đòi hỏi phải đầu tư lớn, công nghệ hiện đại, lồng bè, công trình nuôi có khả năng chịu đựng sóng gió lớn.
Tuy nhiên, hiện nay tỉnh Phú Yên vẫn đang thiếu chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, tổ chức phát triển nuôi biển xa bờ, chính sách chuyển đổi vùng nuôi từ đầm vịnh kín ra các vùng biển hở.
Để gỡ nút thắt này cần sự bàn bạc, trao đổi giữa doanh nghiệp và cơ quan chức năng, làm sao níu chân được doanh nghiệp chứ không để xảy ra tình trạng doanh nghiệp chán nản mà từ bỏ, không đầu tư vào ngành, nghề đang có tiềm năng to lớn để phát triển như nghề nuôi biển.
Theo Tổng cục Thủy sản, tổng diện tích tiềm năng nuôi biển ở nước ta khoảng 500.000ha, trong đó diện tích nuôi vùng bãi triều ven biển là 153.300 ha; diện tích nuôi vùng vũng vịnh, eo ngách và ven đảo là 79.790 ha và nuôi vùng biển xa bờ 100.000 ha.
Có nhiều tiềm năng, dư địa, nhưng ngành nuôi biển Việt Nam còn gặp một số thách thức, theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến. Một số điểm nghẽn được lãnh đạo ngành nông nghiệp chỉ ra, gồm:Quy hoạch chưa tốt, hoạt động nuôi tự phát, công tác nghiên cứu, dự báo thị trường tiêu thụ còn yếu, công nghệ sản xuất giống, quản lý sức khoẻ và môi trường vùng nuôi, hạ tầng phục vụ nuôi biển còn hạn chế...
Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến nhấn mạnh: "Doanh nghiệp khỏe thì nền kinh tế mới khỏe. Doanh nghiệp mà có vốn, có điều kiện kinh tế nhưng lại vướng thủ tục hành chính hay các yếu tố đầu tư là dễ từ bỏ, trôi trượt đi. Chính vì vậy, phải tạo môi trường thuận lợi, phải đi song hành, sát cánh cùng các doanh nghiệp, chứ không phải ngồi đấy mà xoay doanh nghiệp, vặn doanh nghiệp như đối tượng là không được, doanh nghiệp phải là đối tác trên tất cả các lĩnh vực chứ không riêng lĩnh vực thủy sản. Doanh nghiệp có khó khăn gì thì cần bàn bạc, trao đổi, tháo gỡ, xúc tiến đầu tư".
“Chúng ta cũng cần kêu gọi các doanh nghiệp lớn đầu tư vào nuôi biển. Họ sẽ là những cánh chim đầu đàn để doanh nghiệp khác cũng như các địa phương bay theo. Từ đó, chúng ta sẽ có một hệ sinh thái nuôi biển cả vùng khơi, vùng lộng và vùng bờ đảm bảo bền vững; đồng thời khơi thông được nguồn lực trong giai đoạn tới để ngành thủy sản Việt Nam có vị thế lớn trên khu vực và quốc tế”, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT khẳng định.
Bên cạnh đó, theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, vấn đề truy xuất nguồn gốc, triển khai mã số vùng nuôi để phục vụ cho xuất khẩu thủy sản cũng là vấn đề quan trọng. Hiện nay, Việt Nam đã thực hiện 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới để tham gia vào chuỗi phân phối của thế giới.
Năm 2016, Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam đã đề nghị Bộ NN-PTNT xây dựng trình Chính phủ một Nghị định mới thay thế Nghị định 67/2014/NĐ-CP về một số chính sách hỗ trợ phát triển nuôi biển. Cụ thể, mức hỗ trợ 1 triệu đồng cho 1m3 lồng bè nuôi cá biển ở vùng biển ngoài 6 hải lý, ven đảo theo quy định; 0,5 triệu đồng cho 1m3 lồng bè nuôi cá biển ở vùng biển từ 3 đến 6 hải lý theo quy định. Hỗ trợ không quá 30% giá trị cơ sở nuôi nhuyễn thể, rong biển, tôm hùm, nhưng không quá 1 tỷ đồng/cơ sở.
Bên cạnh đó, hỗ trợ tổ chức, các nhân đầu tư mới cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống cá biển, có công suất sản xuất tối thiểu 5 triệu giống/năm với định mức không quá 30% giá trị cơ sở hoặc không quá 10 tỷ đồng/cơ sở và hỗ trợ doanh nghiệp mua bảo hiểm.
Việc Chính phủ sớm ban hành Nghị định này trong năm nay sẽ tạo cú hích thúc đẩy lĩnh vực nuôi biển phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá cho ngành thủy sản Việt Nam.
Theo Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến: "Trong các khâu, việc sản xuất và cung cấp thức ăn chuyên cho nghề nuôi biển hiện chưa phát triển mạnh, dù đây là yếu tố có ý nghĩa quyết định tới giá thành, chất lượng của sản phẩm".
Thức ăn cho nuôi biển được cung cấp bởi 2 nguồn chính là sản xuất trong nước và nhập ngoại. Về sản xuất, thức ăn gồm 2 loại: Thứ ăn hỗn hợp hoàn chỉnh phục vụ nuôi cá biển công nghiệp; Thức ăn tự chế từ tận dụng các loại phế phụ phẩm trong nông nghiệp, các loài cá tạp được sử dụng khá phổ biến trong nuôi biển, đặc biệt nuôi cá biển và nuôi tôm hùm.
Phần lớn lượng thức ăn công nghiệp cho nuôi biển do các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài sản xuất hoặc nhập ngoại nên khó kiểm soát được giá thành, chất lượng, nguồn gốc của thức ăn cũng như khả năng và các phương thức cung cấp.
Hiện nay đã có một số công ty tham gia sản xuất thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh cho nuôi biển như Công ty TNHH De Heus... Để nuôi biển bền vững, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến kêu gọi cơ quan quản lý, địa phương và doanh nghiệp cần tăng cường phối hợp, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong nuôi trồng, bảo quản, chế biến hải sản để tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Các tỉnh Nam Trung bộ sẽ giảm dần diện tích nuôi trồng thủy sản ao đìa, lồng bè ven bờ, mở rộng vùng nuôi biển hở; áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất…
Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến cho rằng, nước ta có điều kiện tự nhiên và môi trường khá thuận lợi để phát triển nuôi biển công nghiệp, quy mô hàng hóa lớn.
Hiện nay nước ta có nhiều đối tượng nuôi phong phú có giá trị kinh tế cao như cá chim vây vàng, cá chẽm, cá song, tôm hùm… và các loài nhuyễn thể, rong biển. Đến năm 2021, diện tích nuôi biển của nước ta đạt khoảng 85.000 ha, 9 triệu m3 lồng bè, với tổng sản lượng khoảng 730.000 tấn. Tuy nhiên đây vẫn là con số còn khiêm tốn, bởi nước ta còn nhiều tiềm năng.
Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, thời gian qua, Chính phủ và các địa phương đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển nuôi biển, từ đó bước đầu hình thành ngành nuôi biển công nghiệp. Tuy nhiên ngành nuôi biển nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, nhất là hạ tầng thủy sản trong nhiều năm không được quan tâm đúng mức, quy hoạch và hoạt động quy hoạch chưa tốt, việc nuôi tự phát phá vỡ quy hoạch vẫn còn phổ biến. Cùng với đó, ô nhiễm môi trường, tiêu thụ sản phẩm còn gặp khó khăn, khó phát triển một cách đồng bộ. Công tác phòng trừ dịch bệnh trên các đối tượng nuôi còn nhiều hạn chế…
Để tổ chức thực hiện thành công Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, Quyết định số 1664/QĐ- TTg ngày 4/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (gọi tắt là Đề án 2 nuôi biển). Thống nhất hành động trong 3 trục (Chính phủ, doanh nghiệp, người dân), tranh thủ thời cơ, đồng lòng xây dựng nuôi trồng thuỷ sản trên biển thành ngành hàng mang lại giá trị cao và phát triển bền vững, Thứ Trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến đề nghị các cơ quan, các địa phương, doanh nghiệp tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Đẩy các hoạt động nuôi trồng thuỷ sản trên biển bền vững; đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong nuôi trồng, bảo quản, chế biến sản phẩm, tạo ra sản phẩm chủ lực, có chất lượng, giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đề nghị Tổng cục Thuỷ sản triển khai kế hoạch phát triển nuôi biển hiệu quả, bền vững, phù hợp điều kiện thực tế, ưu tiên phát triển nuôi biển công nghiệp. Khuyến khích đầu tư theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến trên thế giới. Nhất là triển khai các chương trình, dự án trọng điểm, để giải quyết các vấn đề cốt lõi, tạo nền tảng phát triển ngành nuôi biển hiệu quả, bền vững, thân thiện môi trường.
Các tổ chức khoa học công nghệ, Viện, Trường Đề xuất và triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và dự án chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực nuôi biển (sản xuất giống, quản lý sức khoẻ đối tượng nuôi, giám sát môi trường và phòng trị dịch bệnh trên thuỷ sản nuôi; Đề xuất các dự án đào tạo nguồn nhân lực, tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ phục vụ nuôi biển, đặc biệt là nuôi biển công nghiệp.
Đối với các địa phương, các Sở NN-PTNT tham mưu cho Tỉnh uỷ, UBND tỉnh kế hoạch thực hiện các nội dung tại Quyết định số 1664; Tham mưu trình cơ quan thẩm quyền ban hành các chính sách đặc thù, tạo thuận lợi thu hút doanh nghiệp đầu tư, phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên biển bền vững; Tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng, tích hợp quy hoạch nuôi biển vào quy hoạch tỉnh, triển khai một cách nghiêm túc, hiệu quả. Tổ chức thực hiện đồng bộ các quy định của Luật Thủy sản năm 2017.
Quảng Ninh có thế mạnh nuôi tôm, nuôi biển nhờ đường bờ biển dài trên 250km, sở hữu 50.000ha eo biển, bãi triều cùng hơn 2.000 hòn đảo.
Bên cạnh đó, tỉnh còn sở hữu môi trường, độ sâu nuôi phù hợp với nhiều động thực vật phù du, nhiều vụng kín, tốc độ dòng chảy nhỏ, ít ảnh hưởng bởi gió bão cũng như xa nguồn ô nhiễm dầu, chất thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt.
Cùng với đó, thị trường tiêu thụ tôm và sản phẩm nuôi biển của Quảng Ninh khá thuận lợi khi có các cửa khẩu giao thương với Trung Quốc, các cảng biển, cửa ngõ ASEAN.
Năm 2021, toàn Quảng Ninh có trên 7.000ha nuôi tôm, trong đó 4.000ha nuôi công nghiệp, sản lượng đạt trên 14.000 tấn, giá trị đạt trên 1.400 tỷ đồng. Diện tích nuôi cá biển, nhuyễn thể đạt 10.600ha, sản lượng đạt 45.000 tấn, trong đó 39.000 tấn nhuyễn thể, còn lại là cá biển.
6 tháng đầu năm 2022, tổng sản lượng thủy sản đạt 73.000 tấn, tăng 8,7% so với cùng kỳ 2021. Trong đó, sản lượng khai thác đạt gần 35.000 tấn, sản lượng nuôi trồng đạt 38.000 tấn. Diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 32.000ha, tăng 50% so với cùng kỳ năm 2021.
Theo đánh giá của Chi cục Thủy sản, sản xuất tôm và nuôi biển của Quảng Ninh tuy đã phát triển nhiều so với trước đây, nhưng chưa tương xứng so với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh.
Hiện Quảng Ninh đã phần nào chủ động về nguồn giống tôm và cá biển, nhưng nguồn giống nhuyễn thể, nguồn vật tư sản xuất, thức ăn, thuốc thú y thủy sản và vật liệu nổi vẫn đang phụ thuộc vào thị trường.
Năng suất nuôi biển của Quảng Ninh chưa được cao, đặc biệt là tính liên kết yếu, hạ tầng các vùng nuôi trồng thuỷ sản khi vẫn tồn tại tình trạng tự phát, cơ sở thu mua, chế biến tôm và sản phẩm nuôi biển mới phát triển ở bước đầu.
Ông Nguyễn Tri Phương, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Phú Yên này cho biết đang thực hiện xây dựng Đề án tổng thể phát triển ngành nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030.
Từ đó đảm bảo sắp xếp, cơ cấu lại tổng thể các vùng nuôi một cách thích hợp, tận dụng tối đa tiềm năng để phát triển nuôi trồng thủy sản trên địa bàn theo hướng hiệu quả cao, bền vững, hài hòa với sự phát triển của các ngành kinh tế khác như du lịch, năng lượng.
Để cải thiện dần môi trường đầm, vịnh, vùng nuôi cũng như có thể phát triển bền vững, hài hòa giữa nuôi trồng thủy sản với các ngành kinh tế khác, UBND tỉnh đã chỉ đạo các địa phương, các ngành liên quan tập trung triển khai nhiều giải pháp cấp bách và lâu dài. Trong đó về giải pháp cấp bách đang được triển khai như rà soát, hoàn thiện các phương án chi tiết phát triển nuôi trồng thủy sản để tích hợp vào quy hoạch tỉnh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2050 làm căn cứ thực hiện.
Cùng với đó, đầu tư nâng cấp hạ tầng vùng nuôi đảm bảo điều kiện áp dụng các biện pháp thực hành nuôi tốt (VietGAP, Global-GAP...), nuôi công nghệ cao. Cũng như tăng cường quản lý nuôi trồng thủy sản bằng lồng, bè trên các đầm, vịnh kín theo đúng quy hoạch; sắp xếp lại lồng bè nuôi trong các vùng quy hoạch, giải tỏa số lượng lồng, bè dôi dư không đúng quy hoạch, quy định quản lý. Đồng thời tăng cường quản lý chất lượng giống, thức ăn, dịch bệnh, môi trường...
Bổ sung, tích hợp vào quy hoạch vùng biển mở khoảng 1.000ha và diện tích trên bờ khoảng 6-10ha trên địa bàn thị xã Sông Cầu; 3-5 ha ở xã An Hải (Tuy An) để đầu tư cầu cảng và công trình phụ trợ kết nối với dự án nuôi biển công nghiệp.
Ông Lê Tấn Bản, Giám đốc Sở NN-PTNT Khánh Hòa định hướng phát triển nuôi trồng thủy sản trong thời gian tới của tỉnh này sẽ giảm dần diện tích nuôi ao đìa, lồng bè ven bờ. Thực hiện giao mặt nước cho dân theo Luật Thủy sản 2017, trong đó ưu tiên cho các hộ sinh sống tại địa phương mà nguồn sống chủ yếu dựa vào thu nhập từ nuôi trồng thủy sản hay chuyển đổi từ nghề khai thác ven bờ sang nuôi trồng thủy sản. Cùng với đó tuyên truyền hướng dẫn ngư dân chuyển đổi lồng bè gỗ truyền thống sang lồng HDPE chịu được sóng gió, đảm bảo an toàn và mỹ quan kết hợp với mô hình du lịch biển.
Tỉnh này cũng sẽ phát triển diện tích nuôi trồng thủy sản ở vùng biển hở. Trong đó, kêu gọi doanh nghiệp có kinh nghiệm, tiềm lực đầu tư nuôi biển công nghiệp để tăng nhanh hơn nữa sản lượng nuôi công nghiệp. Đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu áp dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi thủy sản thương phẩm; hình thành các Tổ liên kết nuôi trồng thủy sản tiến tới thành lập các Hợp tác xã trong nuôi trồng thủy sản, liên kết với các doanh nghiệp để đầu ra sản phẩm được ổn định.
Theo Cục Thú y (Bộ NN-PTNT), hàng năm trong các giai đoạn chuyển mùa ở nước ta đều xảy ra hiện tượng tôm hùm, nghêu ngao, tôm nước lợ nuôi quảng canh và một số đối tượng nuôi biển khác bị chết, với nhiều nguyên nhân khác nhau.
Tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu đối với nuôi tôm hùm, nghêu ngao…là thả với mật độ dày, vượt quá quy hoạch của các địa phương và không tuân thủ quy trình nuôi, môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Cùng với đó tác động biến đổi khí hậu, mưa bão, lũ lụt…làm cho môi trường sống của tôm hùm và các đối tượng nuôi biển bị thay đổi đột ngột.
Bên cạnh đó, một số dịch bệnh nguy hiểm như bệnh sữa, đỏ đuôi trên tôm hùm, ký sinh trùng perkinsus trên nhuyễn thể, bệnh nguy hiểm trên cá…cũng thường xuyên xuất hiện, gây thiệt hại cho người nuôi.
Trong khi đó công tác vệ sinh, khử trùng lồng bè nuôi, bãi nuôi gặp nhiều khó khăn, công tác giám sát chủ động, lấy mẫu, xét nghiệm để dự báo, cảnh báo dịch còn hạn chế do thiếu nhân lực, kinh phí…
Cùng với đó chọn con giống khỏe mạnh, không có xây xát, không bị dị hình, không mang mầm bệnh, không thả mật độ quá dày. Con giống nhập khẩu phải được kiểm dịch theo quy định.
Các địa phương cần phát triển đào tạo nguồn nhân lực, kỹ thuật cho các trại nuôi, đồng thời hướng dẫn người nuôi tuân thủ quy hoạch vùng nuôi của địa phương, tuân thủ quy trình nuôi và các biện pháp đảm bảo an toàn sinh học trong hoạt động nuôi trồng thủy sản. Tăng cường công tác giám sát dịch bệnh (cả giám sát bị động và chủ động), đồng thời thực hiện khai báo cho cơ quan có thẩm quyền và chuyên môn thú y khi có sự cố xảy ra.
Người nuôi không sử dụng thức ăn (cá vụn, cá tạp) đã ươn, thối. Nguồn thức ăn tươi sống phải được kiểm soát, quản lý, xử lý đảm bảo không làm lây lan dịch bệnh và ô nhiễm nguồn nước do thức ăn thừa gây ra.
Trong quá trình nuôi phải thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường, vệ sinh lồng bè, lưu thông dòng chảy, đảm bảo oxy hòa tan. Khi môi trường thay đổi, nước biển nhớt hoặc có váng, người nuôi cần có biện pháp vệ sinh, phòng bệnh ngay.
Người nuôi sử dụng thuốc và hóa chất phù hợp để phòng ngừa bệnh cũng là phương pháp hiệu quả. Ngoài ra, các hộ nuôi có thể treo túi thuốc tím đầu dòng chảy định kỳ, cũng là phương pháp tốt giúp hạn chế bệnh cho cá nuôi.
Đồng thời cần tăng cường dinh dưỡng, bổ sung vitamin và khoáng chất vào khẩu phần ăn cho cá, giúp cá khỏe và tăng sức đề kháng chống lại các yếu tố bất lợi của môi trường và tác nhân gây hại.
Khi phát hiện đối tượng nuôi chết do dịch bệnh, người nuôi cần vớt đối tượng chết ra khỏi lồng bè để xử lý theo quy đinh, không vứt xác ra khu vực nuôi để tránh lây lan dịch bệnh ra môi trường bên ngoài. Đồng thời báo cho các cơ quan chức năng xử lý, hạn chế dịch bệnh lây lan.
Một là, nghiên cứu, phát triển các công thức thức ăn, nguyên liệu chế biến thức ăn phù hợp với từng loài và giai đoạn phát triển, đặc biệt là giai đoạn con non, con giống của các đối tượng nuôi biển.
Hai là, xây dựng các khu sản xuất thức ăn tập trung, gắn với khu dịch vụ hậu cần nghề cá và vùng nuôi biển tập trung; tiến tới chủ động sản xuất trong nước, đủ số lượng, đảm bảo chất lượng phục vụ sản xuất giống và nuôi thương phẩm.
Ba là, xã hội hóa công tác nghiên cứu về thức ăn phục vụ nuôi biển, trong đó chú trọng việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp, thành phần kinh tế đầu tư vào công tác nghiên cứu, phát triển sản xuất thức ăn phục vụ nuôi biển.
Bốn là, vừa tiến hành nghiên cứu, vừa nhập công nghệ, thiết bị và công thức thức ăn cho các đối tượng nuôi để chuyển giao, nghiên cứu và từng bước làm chủ công nghệ sản xuất thức ăn phục vụ sản xuất con giống và nuôi thương phẩm.
Năm là, tổ chức đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ chuyên nghiên cứu về dinh dưỡng, thức ăn cho các đối tượng nuôi trồng thủy sản, trong đó có nuôi biển để có đủ nguồn lực phục vụ công tác nghiên cứu, phát triển sản xuất.
Sáu là, thu hút nguồn lực trong và ngoài nước phát triển công nghiệp sản xuất thức ăn công nghiệp nuôi biển có công nghệ hiện đại, quản lý tiên tiến, liên kết chặt chẽ với các trại nuôi biển; đảm bảo sản phẩm thức ăn có chất lượng cao và giá thành hợp lý.