Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan có bài tham luận quan trọng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII diễn ra từ ngày 4-10/5. Báo Nông nghiệp Việt Nam trân trọng giới thiệu. Tựa bài viết do tòa soạn đặt.
“Nông dân ta giàu, thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh, thì nước ta thịnh”. Đây là lời nhắn nhủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Thư gửi Điền chủ Nông gia Việt Nam ngày 11/4/1946. Lời dạy đó khởi đầu từ hai chữ “nông dân”, một thành tố đứng giữa cụm từ rất quen thuộc: “nông nghiệp, nông dân, nông thôn”.
Nhất quán quan điểm xuyên suốt này, Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành nhiều Nghị quyết, chính sách, khẳng định vai trò, vị thế của nông dân trong tiến trình phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Sự bền vững, chỉ số tăng trưởng của ngành nông nghiệp, diện mạo, đổi thay tích cực của nông thôn, suy cho cùng, đều xoay quanh người nông dân. Trong khuôn khổ buổi thảo luận hôm nay, tôi xin trình bày những suy nghĩ, góc nhìn mang tính trao đổi, chia sẻ về nông dân, về người dân nông thôn, về hàng chục triệu bà con nông dân thiết thân - những người đầu tiên đặt hạt giống xuống đồng ruộng, thả con giống đầu tiên vào chuồng trại, xuống ao bè, những người bao năm gắn bó trồng cây, giữ rừng, những người ngày ngày vươn khơi, bám biển khai thác nguồn lợi thủy sản.
Trước Tết vừa rồi, có nhà báo nêu câu hỏi với tôi: “Nông dân chúng ta giàu hay nghèo? Giải pháp nào để tăng thêm thu nhập cho người nông dân?”. Không dễ để đưa ra câu trả lời chuẩn xác. So với năm 2008, năng suất lao động nông nghiệp đạt 55,9 triệu đồng/người, cao hơn gấp 4 lần. Thu nhập và đời sống người dân nông thôn đã được cải thiện. Một số hộ nông dân trở nên khá giả và giàu có nhờ vào sản xuất, kinh doanh nông sản.
Tuy nhiên, cần bóc tách các lớp lang để thấy rằng, đây là số liệu bình quân, trong khi mức độ phân nhóm nông dân vốn luôn đa dạng và trải rộng, khó mà có thể đưa ra nhận định chung, vì khi ấy có thể đúng với nhóm này, nhưng lại không đúng với nhóm khác. Chỉ số thu nhập bình quân khó lòng phản ánh hết sự bấp bênh trong sinh kế của phần lớn nông dân hay sự chênh lệnh thu nhập giữa các vùng sinh thái, giữa trồng lúa, trồng rừng với canh tác, sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi khác.
Cách tính thu nhập bình quân không còn phù hợp với tư duy tăng trưởng bao trùm – bảo đảm những lợi ích, cơ hội kinh tế từ quá trình tăng trưởng được chia sẻ một cách bình đẳng, hài hòa cho các thành viên trong xã hội
Một lão nông vùng miền Tây sông nước từng bày tỏ nỗi trăn trở: “Tại sao cũng cùng làm nghề nông, mà nông dân ở các nước khác có mức sống khá giả, trong khi nông dân quê mình cần cù, chịu thương, chịu khó, sao mà vẫn nghèo khổ, cơ cực quá?”. Đây là câu hỏi gợi mở ra nhiều vấn đề bắt đầu từ Hội nghị lần này.
Đất đai chỉ phát huy giá trị khi người sử dụng đất đủ năng lực phát huy tối đa hóa giá trị của đất. Theo số liệu từ khảo sát mức sống dân cư về giá trị gia tăng bình quân mỗi hec-ta mỗi năm, canh tác lúa thấp hơn từ khoảng 2 đến 3 lần so với canh tác các loại cây trồng khác và nuôi trồng thủy sản, và tất yếu là đất sản xuất nông nghiệp sẽ mang lại giá trị nội sinh thấp hơn khi chuyển đổi sang các ngành kinh tế khác.
Ngoài yếu tố khách quan do lợi thế so sánh giữa các khu vực kinh tế, mức chênh lệch đó còn cho thấy giới hạn của người nông dân trong khả năng tạo ra giá trị thặng dư từ đất. Đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến năng suất lao động trong khu vực nông nghiệp rất thấp như chúng ta thường đánh giá, trăn trở.
Thực trạng đó còn khiến cho gần 85% diện tích đất tự nhiên hiện là đất nông nghiệp, trong đó khoảng 30% đã bị thoái hóa. Nhưng đất đai dù có chai cằn thì vẫn là sinh kế của hàng chục triệu nông dân, những người đã theo Đảng làm nên các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, và khu vực nông thôn là chỗ vựa vững chắc trong các cuộc cách mạng đó.
Hiện nay, trong triển khai cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, người nông dân lại được xem là chủ thể, được đặt vào vị trí trung tâm. Nhưng muốn thực hiện được vai trò chủ thể và tương xứng với vị trí trung tâm, điều cần làm và phải làm, cần thiết và cấp thiết, là nâng cao năng lực người nông dân qua tri thức hóa.
Ngành nông nghiệp thời gian qua chủ yếu hỗ trợ nông dân sản xuất sao cho tốt nhất, năng suất cao nhất, sản lượng nhiều nhất. Công tác quản lý, điều hành sản xuất được quan tâm sát sao. Cả guồng máy vận hành toàn lực để bảo đảm những vụ mùa bội thu, phòng ngừa dịch bệnh, cung cấp, tiêu thoát nước kịp thời…
Vậy mà, điệp khúc buồn "được mùa, mất giá” cứ khiến người sản xuất thấp thỏm âu lo theo từng mùa vụ. Nông sản dư thừa, lúa thóc đầy đồng, lợn gà đầy chuồng, cá tôm đầy ao, nhưng không đưa ra được thị trường.
Câu chuyện “giải cứu nông sản” lại được nhắc đến, kèm theo nhận định chua xót về thực trạng “nông nghiệp từ thiện” chưa có lời giải thỏa đáng. Tình trạng nông sản ùn ứ ở các cửa khẩu tiếp tục gây xôn xao. Thu nhập của người nông dân vốn đã ít ỏi, cứ thế lại bị bào mòn thêm.
“Biến đổi khí hậu, biến động thị trường, biến chuyển xu thế tiêu dùng” đặt ra yêu cầu cấp thiết về sự thay đổi, để thích ứng tốt hơn với một thế giới đầy rẫy “biến động, bất định, phức tạp và mơ hồ”. Sự thay đổi quan trọng nhất cần bắt đầu từ chính mỗi người nông dân - những người trực tiếp hằng ngày sản xuất, kinh doanh nông sản.
Sự thay đổi căn cơ nhất bắt đầu từ việc xác định nhiệm vụ “nâng cao vai trò, vị thế, năng lực làm chủ của nông dân và người dân nông thôn” là ưu tiên hàng đầu, tại Dự thảo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Không phải ngày một ngày hai, không thể tự dưng mà người nông dân “chân lấm tay bùn” bỗng chốc “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” để đảm nhận ngay vai trò chủ thể, vị thế trung tâm. Để có thể trở thành chủ thể, người nông dân phải có tâm thế tự lực, tự chủ, hội đủ kiến thức, kỹ năng, năng lực, thái độ của “người làm chủ” - làm chủ vận mệnh của bản thân, làm chủ câu chuyện phát triển cộng đồng dân cư nông thôn.
Muốn vậy, nông dân và người dân nông thôn cần nhận thức rằng: cuộc đời của mình là do chính mình quyết định. Muốn vậy, người nông dân phải có ý chí mạnh mẽ, suy nghĩ tích cực, thay vì than thân, trách phận hay trông chờ ỷ lại, an phận, thu mình lại trong ngôi nhà, bờ ruộng, mảnh vườn. Muốn vậy, người nông dân phải được hỗ trợ tiếp cận, đào tạo kiến thức, huấn luyện kỹ năng, cập nhật kỹ thuật, công nghệ tiên tiến.
Việc đánh giá sự thay đổi của người nông dân, của bộ mặt dân cư nông thôn thường dựa trên thước đo thu nhập, thực hiện chỉ tiêu giảm nghèo. Trong khi đó, yêu cầu và giải pháp về “phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân” đã được xác định trong Nghị quyết 26, Trung ương 7 Khóa X từ 14 năm trước nhưng chưa được chúng ta quan tâm triển khai đúng mức.
Ngành nông nghiệp đang và sẽ phải tiếp cận những tư duy mới trong thời đại kinh tế tri thức, ứng dụng những thành tựu trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Vậy thì, nông dân - chủ thể của nền nông nghiệp - cũng phải được tiếp cận tư duy mới, kiến thức mới, công nghệ mới, kỹ năng mới. “Tri thức hóa nông dân” là yêu cầu bắt buộc.
Cùng với kinh nghiệm “trông trời, trông đất, trông mây/ trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm”, những “lão nông tri điền” ngày nay còn có thể “trông vào các thiết bị thông minh”, nhờ đến sự hỗ trợ của các chuyên gia, nhà khoa học nông nghiệp. Sự cộng hưởng giữa kinh nghiệm tích lũy từ thửa ruộng, bờ ao với tri thức “đám mây”, kết nối “dữ liệu số” có thể giúp tạo nên những “nhà khoa học chân đất”, khởi tạo giá trị mới.
Lan toả tri thức, kỹ năng có thể giúp người nông dân tiếp cận cách thức sản xuất, kinh doanh hiệu quả, làm giàu bền vững. Trách nhiệm đó, thậm chí có thể xem là bổn phẩn, là trọng trách, trước hết thuộc về chính quyền, ngành chuyên môn. Đó còn là trách nhiệm xã hội của các nhà khoa học, chuyên gia, doanh nhân tâm huyết thúc giục nhau về làng, về với người nông dân, về với thửa ruộng, bờ ao, để cùng lắng nghe, thấu hiểu. Những cuộc gặp gỡ thân tình có thể truyền đạt kiến thức làm giàu.
Những buổi sinh hoạt cộng đồng có thể gợi mở chuyên đề giới thiệu thông tin thị trường, quy luật kinh tế phổ thông, hướng dẫn kỹ năng hữu ích. Những chương trình khuyến nông trên báo đài không chỉ khuyến khích người nông dân sản xuất, mà còn giới thiệu với người nông dân cách thức tiết giảm, tối ưu chi phí sản xuất.
Có như vậy, nghề nông từng bước được tích lũy hàm lượng tri thức một cách bài bản, chuyên nghiệp, để người nông dân ngày càng tự tin, tự hào về một nghề nghiệp đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của thị trường, chuẩn mực về tiêu chuẩn sản xuất, an toàn.
Tri thức hoá nông dân là điều các quốc gia phát triển đã làm để biến người nông dân thành những doanh nhân, nhà khoa học, được trang bị kiến thức kinh tế thị trường, làm chủ được máy móc, công nghệ.
Có tri thức, người nông dân trong quá trình sẽ tự phát hiện vấn đề, phân tích và giải quyết vấn đề, biết và tự cân nhắc về rủi ro từ quyết định của mình. Có tri thức, người nông dân sẽ chủ động thích ứng với sự thay đổi, vượt qua những cú sốc do biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, biến động thị trường và biến chuyển xu thế tiêu dùng.
Có tri thức, người nông dân biết tối ưu hóa quy trình sản xuất và tối thiểu hóa chi phí và tối đa hóa lợi nhuận. Tôi rất ấn tượng và cảm nhận được một đúc kết rằng, mọi sự hỗ trợ đều là vô nghĩa nếu người nông dân không thay đổi. Mọi sự hỗ trợ phải bắt đầu từ hỗ trợ người nông dân thay đổi, trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ tích cực với cuộc sống thông qua cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ.
Một vị lãnh đạo đã từng chia sẻ: “Tiền trong túi là tiền hữu hạn, tiền trong đầu là tiền vô hạn”. Tạo nên sự “giàu có” ở mỗi người, không chỉ dừng lại ở thu nhập, mức sống, điều kiện vật chất, mà mở rộng ra, còn là sự khỏe mạnh, đời sống tinh thần thoải mái, thái độ sống lạc quan, tích cực. Tiếp cận theo quan điểm này, đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và người dân nông thôn cần được quan tâm cải thiện toàn diện.
“Làm giàu” cho nông dân là giúp người nông dân biết sản xuất ra những sản phẩm thị trường cần, chứ không phải sản xuất theo khả năng hiện có của mình, với cách thức sản xuất tiết kiệm nhất, để giá thành hợp lý nhất, mà vẫn bảo đảm chất lượng. “Làm giàu” cho nông dân trang bị cho người nông dân kỹ năng sản xuất và cả tư duy kinh tế.
“Làm giàu” kiến thức cho nông dân là yêu cầu bắt buộc. Nghề nông là nghề có tác động trực tiếp và bền sâu đến sức khoẻ, đến môi trường. Cách đây vài năm, Đài Truyền hình Việt Nam có loạt ghi nhận về tình trạng lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hóa học, về rủi ro người sản xuất, thu hoạch bị phơi nhiễm dư lượng phân thuốc độc hại, về rác thải chai lọ nhựa. Sử dụng phân thuốc thiếu kiểm soát, người phun thuốc, bón phân không ý thức được hết tác hại khi đi chân trần, không khẩu trang, không găng tay, không đồ bảo hộ.
Thuận chiều gió, thuốc bảo vệ thực vật bay đến cả môi trường sinh hoạt chung quanh. Theo nước tưới, phân bón vô cơ dùng quá mức thấm dần, thấm sâu vào đất, vào mạch nước ngầm.
“Làm giàu” cho nông dân, ở đây, chính là giúp người dân tiếp cận và thấu hiểu kiến thức về gìn giữ môi trường, về bảo vệ sức khỏe, trước hết là của chính mình, của người tiêu dùng, và của cộng đồng. “Làm giàu” cho người nông dân là giúp nông dân hiểu được “sản xuất, kinh doanh nông sản là trao đi sức khỏe, nhận lại niềm tin”.
“Làm giàu” đời sống tinh thần cho nông dân là khơi gợi ở người nông dân thái độ sống tích cực, sẵn lòng đón nhận sự thay đổi. “Làm giàu” đời sống tinh thần cho nông dân là giúp người nông dân hiểu rõ sức mạnh của “mua chung - bán chung”, của tinh thần “hợp tác - liên kết”, để chủ động tham gia vào các mô hình, tổ chức kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã.
“Làm giàu” đời sống tinh thần cho nông dân là giúp người nông dân luôn mong muốn mở rộng không gian giao tiếp, chủ động tạo lập các mối quan hệ xã hội. Nông dân mình trước nay quen thuộc với lũy tre làng, với cánh đồng, mảnh vườn. Muốn suy nghĩ lớn hơn, tầm nhìn xa hơn, khát khao mãnh liệt hơn, thì phải vượt ra không gian làng xã, kết nối với không gian liên xã, liên huyện, liên tỉnh, liên vùng. Trong không gian kết nối đó, người nông dân được tiếp xúc với các nhà khoa học, chuyên gia, doanh nghiệp, được cung cấp kiến thức, kỹ năng, tư vấn, liên kết...
Không gian kết nối đó chính là không gian sinh hoạt cho cộng đồng dân cư nông thôn, như mô hình Hội quán ở Đồng Tháp, Nông hội ở Gia Lai, Kon Tum, Ngôi nhà trí tuệ ở Hà Tĩnh và những mô hình tương tự ở nhiều địa phương khác. Các không gian cộng đồng như một hình thức đình làng ngày xưa, nơi là chiếc cầu nối giữa Nhà và Nước, nơi để người dân luận bàn chuyện đất nước trước hết là chuyện xóm làng. Nơi đó sẽ hình thành tính cố kết cộng đồng, hướng đến hợp tác trong cuộc sống và hợp tác nhau trong sản xuất.
“Nông nghiệp là sinh mệnh. Nông thôn là tương lai”.
“Không có nông dân. Không có lương thực. Không có tương lai”.
Đây là những thông điệp mạnh mẽ về tầm quan trọng của “nông nghiệp - nông dân - nông thôn” từ chính các quốc gia tiên tiến có nền công nghiệp, dịch vụ phát triển vượt bậc. Trong tựa sách “Tương lai sau đại dịch Covid”, có ý kiến nhận định rằng: “Khi mọi người tranh luận xem ngành nào là thiết yếu và không thiết yếu, thì có một điều không cần phải tranh cãi: Nông nghiệp. Bởi lẽ, Nông nghiệp đạt đủ các chuẩn mực của một ngành thiết yếu. Không có thức ăn chúng ta không có gì cả. Tình trạng thiếu hụt lương thực, thực phẩm, nhất là sản phẩm tươi sống khuyến khích nhiều người quan tâm tham gia vào nghề nông, vào lĩnh vực nông nghiệp”.
Vậy chúng ta đã chuẩn bị gì cho tương lai, cho ngành nông nghiệp, cho đội ngũ nông dân kế cận, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045? Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần thảo luận về giáo dục nông nghiệp bài bản, về “lồng ghép các nội dung về hợp tác xã, phát triển nông thôn trong các trường chính trị và trong hệ thống các trường chính trị, các cơ sở đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân” như Kết luận số 70/KL/TW, ngày 9/3/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.
Có lẽ, mô hình Trường cấp 3 Nông nghiệp ở Nam Định - trường học đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam dạy học sinh kỹ thuật nông nghiệp theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến nông sản, thực phẩm theo mô hình Nhật Bản, là một gợi mở thú vị. Tại ngôi trường lý thú này, học sinh được ngửi đất, bắt sâu, làm bánh mỳ từ gạo.
Từ việc đánh giá kết quả đào tạo tích cực của mô hình này, có thể xem xét khả năng nhân rộng ra các địa phương đủ điều kiện, như Trường cấp 3 thủy sản tại các tỉnh, thành ven biển, Trường cấp 3 lâm nghiệp ở các tỉnh trung du và miền núi.
Triển khai mô hình này, điều quan trọng không chỉ là kiến thức, kỹ năng, mà hơn hết là vun bồi, hun đúc cho học sinh tình cảm, khát vọng trở thành những người nông dân chuyên nghiệp, thương nhân kinh doanh nông sản, kỹ sư nông nghiệp thực hành, nhà nông học lành nghề, yêu nghề trong tương lai, những người làm nông nghiệp bằng cả tinh thần văn hóa và trách nhiệm xã hội như các quốc gia tiên tiến đã làm từ mấy mươi năm trước.
Khi ấy, nghề nông sẽ thoát khỏi lời nguyền “không biết làm gì thì làm nghề nông”. Khi ấy, người nông dân sẽ không còn “mặc định” qua hình tượng áo nâu, đầu vấn khăn rằn, tay cầm bó lúa. Khi ấy, người nông dân buổi sáng có thể mặc chiếc áo màu nâu của đất, buổi chiều mặc chiếc áo màu xanh của nhà máy chế biến và buổi tối có thể mặc chiếc áo màu trắng của trí thức, thương nhân, tự tin vào năng lực của mình trước sóng gió thị trường.
Muốn có một nền nông nghiệp chuyên nghiệp phải có đội ngũ nông dân được chuyên nghiệp hóa. Muốn có một nền nông nghiệp tri thức trong nền kinh tế tri thức, người nông dân phải được tri thức hóa. Muốn tri thức hóa nông dân phải thông qua nhiều giải pháp: cấu trúc lại hệ thống giáo dục nghề từ bậc thấp tiến lên bậc cao, từ ruộng đồng tiến vào trường học, từ giáo trình cho người học đến phương pháp cho người dạy, từ hệ thống khuyến nông cơ sở đến đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học, từ sách vở tài liệu cho đến các báo đài, các kênh truyền thông chuyên biệt dành cho nông dân.