Ông Mai Tiến Dũng - nguyên Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ cho rằng, Nghị quyết 120 tạo tầm nhìn chiến lược, triết lý phát triển “thuận thiên” để chủ động hóa giải các thách thức, tận dụng tiềm năng, thế mạnh, tạo xung lực mạnh mẽ cho phát triển ĐBSCL.
Ông có thể cho biết hoàn cảnh ra đời, ý nghĩa và tầm tư tưởng của Nghị quyết 120?
Trong chuyến thăm chính thức Hà Lan năm 2017, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã cùng Thủ tướng Hà Lan Mark Rutte ký Ý định thư khẳng định chủ trương hợp tác giữa hai Chính phủ về việc tạo điều kiện thuận lợi triển khai các dự án chuyển đổi quy mô lớn nhằm phát triển bền vững ĐBSCL.
Đây là bước chiến lược tiếp theo trong quan hệ hợp tác Việt Nam - Hà Lan nhằm thực hiện các Thỏa thuận đối tác chiến lược đã ký giữa hai Chính phủ: về thích ứng với biến đổi khí hậu và quản lý nước (2010) và về nông nghiệp bền vững và an ninh lương thực (2014).
Sau Ý định thư, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khi đó đã chỉ đạo kết hợp 3 nội dung lớn:
Một là, xác định chiến lược và các dự án chuyển đổi quy mô lớn về kinh tế xã hội môi trường nhằm phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu.
Hai là, chuyển đổi sinh kế bền vững cho người dân, phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển, suy thoái rừng ngập mặn và sụt lún đất tại vùng ĐBSCL.
Ba là, quy hoạch vùng ĐBSCL, huy động nguồn lực, cơ chế phân bổ điều phối nguồn lực cho phát triển bền vững vùng ĐBSCL.
Đồng thời Thủ tướng giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan và TP. Cần Thơ tổ chức Hội nghị của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu (tháng 9/2017).
Hội nghị đã huy động trí tuệ của các Bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học, các tổ chức quốc tế hiến kế cho phát triển ĐBSCL, cùng với việc kế thừa thành quả của những chủ trương chính sách của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, tích hợp kết quả của các chương trình nghiên cứu, các dự án đã và đang triển khai thực hiện trong những năm trước đó cho vùng ĐBSCL.
Với kết quả của Hội nghị, ngày 17/11/2017 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã thay mặt Chính phủ ký ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu.
Nghị quyết đưa ra tầm nhìn chiến lược, triết lý phát triển “thuận thiên” để chủ động hóa giải các thách thức, tận dụng tiềm năng, thế mạnh, tạo xung lực mạnh mẽ cho phát triển ĐBSCL.
Nghị quyết 120 có sứ mệnh quan trọng đối với sự phát triển của ĐBSCL. Nghị quyết đã thay đổi tư duy toàn diện phát triển kinh tế - xã hội của đồng bằng rộng lớn này như thế nào?
Nghị quyết số 120 được ban hành tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về tư duy của các cấp, các ngành trong xây dựng chính sách, xác định các chương trình chiến lược, các dự án cấp bách thích ứng với biến đổi khí hậu cho ĐBSCL.
Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã quan tâm chỉ đạo, tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, chính sách, nguồn lực, quy hoạch kết nối liên vùng… Đảng bộ, chính quyền các tỉnh vùng ĐBSCL nỗ lực vươn lên vượt qua khó khăn, thách thức.
Đặc biệt, nhân dân vùng ĐBSCL rất phấn khởi ủng hộ và chủ động tham gia thực hiện các chủ trương, chính sách cho phát triển bền vững vùng đất “Chín Rồng” này.
Sau hơn 3 năm triển khai thực hiện, một số kết quả đạt được rất quan trọng, nổi bật như:
Kiến tạo thể chế, chính sách thúc đẩy phát triển bền vững vùng ĐBSCL theo một tổng thể thống nhất, tạo sức mạnh tổng hợp đã được hoàn thiện, tập trung thúc đẩy phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững; phát triển hạ tầng đô thị, ổn định dân cư; gắn kết các quy hoạch phát triển, kết nối hạ tầng giao thông, kinh tế.
Nghị quyết đã thúc đẩy chuyển đổi quy mô lớn theo cơ cấu kinh tế và theo lãnh thổ trên cơ sở phát huy tiềm năng thế mạnh của vùng và từng tiểu vùng. Xung đột giữa các mô hình kinh tế đã và đang được giải quyết. Bước đầu đã hình thành các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn, chuyên canh gắn với công nghệ chế biến, tiêu thụ theo chuỗi giá trị, tạo ra các thương hiệu nổi tiếng thế giới đạm đà bản sắc địa phương.
Kết nối liên vùng đang được thúc đẩy thông qua kết nối kinh tế, giao thông, kết nối hạ tầng nội vùng, giữa ĐBSCL với TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh Đông Nam bộ, thúc đẩy hình thành chuỗi giá trị cho các sản phẩm, dịch vụ. Hội đồng Điều phối vùng ĐBSCL cũng đã được thành lập nhằm giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều phối, kiểm tra, giám sát việc thực hiện liên kết vùng, tháo gỡ được những rào cản và nâng cao hiệu quả nguồn lực đầu tư.
Khơi thông, thúc đẩy nguồn lực đầu tư công làm hạt nhân, dẫn dắt đầu tư của khối doanh nghiệp và các nhà đầu tư nước ngoài, cộng đồng quốc tế. Tổng số vốn ngân sách Nhà nước đầu tư qua địa phương giai đoạn 2016-2020 đạt khoảng 220 nghìn tỷ đồng (chiếm khoảng 16% so với cả nước), trong đó ngân sách Trung ương hỗ trợ có mục tiêu là 80 nghìn tỷ đồng.
Nguồn vốn cân đối ngân sách địa phương đạt 114 nghìn tỷ đồng. Nguồn vốn ODA đạt 22 nghìn tỷ đồng. Thu hút FDI đạt trên 14 tỷ USD.
Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, truyền thông nâng cao nhận thức, đào tạo, chuyển đổi ngành nghề, tăng cường hợp tác quốc tế.
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết 120 chúng ta vấp phải những những khó khăn, vướng mắc gì, thưa ông?
Kết quả triển khai Nghị quyết khẳng định tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước về phát triển bền vững ĐBSCL, phù hợp với bối cảnh và xu thế phát triển trong nước và quốc tế, khẳng định mạnh mẽ quyết tâm chính trị của Chính phủ về ứng phó với BĐKH trên cơ sở kết hợp giữa sáng tạo, tri thức bản địa với các thành tựu khoa học và công nghệ thế giới; sự vươn lên mạnh mẽ và khát vọng phát triển của người dân ĐBSCL và cả nước.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện cũng cho thấy những hạn chế sau:
Thứ nhất, Nghị quyết 120 ra đời trong bối cảnh đã hoàn thành và đang triển khai Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, do đó nguồn vốn đầu tư cho việc triển khai thực hiện Nghị quyết còn chưa được như mong muốn.
Thứ hai, các cơ chế, chính sách mới được ban hành, bổ sung, cần có thời gian để phát huy hiệu quả, đồng thời phải phù hợp với tổng thể chung của cả nước. Thể chế điều phối vùng cần có thời gian để điều phối các nhiệm vụ liên ngành, liên vùng, đề xuất những dự án lớn, có sức lan tỏa, tạo xung lực cho phát triển vùng.
Thứ ba, nguồn lực đã được quan tâm, thúc đẩy nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Phần lớn các công trình, dự án có tính liên vùng, liên ngành, có quy mô lớn vẫn còn chậm triển khai. Cơ chế thu hút nguồn lực đầu tư từ khối tư nhân và xã hội còn gặp nhiều khó khăn, chưa tạo được đột phá, đặc biệt do tác động của đại dịch Covid-19.
Thứ tư, các quy định mới về quy hoạch dẫn đến một số lúng túng trong quá trình rà soát, xây dựng Quy hoạch tổng thể vùng ĐBSCL, Quy hoạch còn chưa được hoàn thành làm cơ sở cho các dự án phát triển, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng. Các dự án hạ tầng còn thiếu kết nối đồng bộ, thiếu các dự án đa mục tiêu.
Thứ năm, công tác nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, số liệu, dữ liệu mới được quan tâm nhưng chưa đầy đủ, chưa cung cấp đủ cơ sở, luận cứ khoa học cho quá trình hoạch định chính sách, xây dựng quy hoạch; chưa làm rõ được thế mạnh của vùng về nông nghiệp, du lịch, biển đảo.
Trước khi bàn giao công việc cho Chính phủ mới, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo tổ chức Hội nghị lần thứ 3 về phát triển ĐBSCL thích ứng biến đổi khí hậu (ngày 13/3). Trong đó nêu khái niệm “8G” để phát triển mảnh đất "Chín Rồng". Xin hỏi, ông Nguyễn Xuân Phúc đã có tư tưởng và thúc đẩy triển khai Nghị quyết này rao sao?
Với vị trí quan trọng đặc biệt, ĐBSCL luôn được lãnh đạo Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc quan tâm chỉ đạo với nhiều chủ trương, chính sách mang tầm thời đại đã được nêu tại các Nghị quyết, chiến lược, điển hình như Nghị quyết số 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường (2013), Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII về kết quả giám sát và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu ở ĐBSCL (2014); Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (2011)...
Đặc biệt, với tâm huyết để ĐBSCL phát triển bền vững, năm 2017, ông Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì Hội nghị đầu tiên huy động sáng kiến, đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý trong và ngoài nước.
Nghị quyết số 120/NQ-CP được Chính phủ ban hành đã thể hiện xuyên suốt và đầy đủ tư duy chiến lược phát triển “thuận thiên” của người đứng đầu Chính phủ.
Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết (Quyết định số 417/QĐ-TTg ngày 13/4/2019) và ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 05/9/2019 về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết.
Với quyết tâm thúc đẩy các giải pháp mạnh mẽ để phát triển bền vững ĐBSCL, ông Nguyễn Xuân Phúc đã 3 lần chủ trì Hội nghị về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu và luôn sát sao, chi đạo các Bộ, ngành, địa phương các cấp thực hiện quyết liệt Nghị quyết số 120; chỉ đạo các nhiệm vụ, giải pháp chiến lược và giao nhiệm vụ cụ thể cho các Bộ, ngành, địa phương để phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu.
Hiểu rõ tầm quan trọng của hạ tầng giao thông đối với ĐBSCL, ông Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo dành nguồn lực và tập trung ưu tiên phát triển hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng gắn với tầm nhìn chung của toàn vùng ĐBSCL, nhất là hệ thống đường cao tốc, các tuyến đường ven biển Đông, biển Tây, tạo sự kết nối thuận tiện, chi phí thấp, thúc đẩy giao thương, mở mang kinh tế cho người dân, làm cơ sở ứng phó hiệu quả với thách thức của biến đổi khí hậu.
Trong 5 năm giữ cương vị Thủ tướng Chính phủ, ông Nguyễn Xuân Phúc luôn trăn trở việc hiện thực hóa lời hứa xây dựng tuyến cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận – Cần Thơ, tuyến cao tốc trọng điểm hàng đầu của vùng mà 20 triệu người dân miền Tây chờ mong. Ông đã 4 lần trực tiếp vào kiểm tra thi công dự án Trung Lương – Mỹ Thuận và khi dự án hoàn thành, ông đã đi thực nghiệm trên toàn tuyến cao tốc và cắt băng thông tuyến.
Ông đánh giá gì về vai trò của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong thực hiện Nghị quyết 120?
Lĩnh vực Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là trụ cột quan trọng trong phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh lương thực và sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu nâng cao đời sống cho bà con nông dân của vùng.
Việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 120 góp phần vào quá trình chuyển đổi sản xuất nông nghiệp theo hướng hình thành các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn, chuyên canh nông sản chủ lực (tôm, cá tra, lúa gạo, trái cây) gắn với công nghệ chế biến, tiêu thụ theo chuỗi giá trị nông sản, phù hợp với chủ trương tăng thủy sản, trái cây, giảm lúa; bước đầu đã tháo bỏ những nút thắt, rào cản, tạo điều kiện thuận lợi tốt nhất để hỗ trợ người dân tham gia chuỗi sản xuất, ổn định sinh kế, gia tăng giá trị và năng suất lao động.
Đặc biệt trong điều kiện biến đổi khí hậu nông nghiệp và nông thôn của vùng đã phát triển theo hướng “thuận thiên” đã giúp ĐBSCL vẫn có những tăng trưởng vượt bậc về nông nghiệp góp phần phát triển kinh tế xã hội của vùng.
Cụ thể, sau khi có Nghị quyết 120, tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị gia tăng nông nghiệp hồi phục, có đóng góp quan trọng cho xuất khẩu nông lâm thủy sản: Tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị gia tăng nông nghiệp ĐBSCL giai đoạn 2017-2019 đạt 4,12%/năm, cao hơn mức tăng bình quân cả nước (3,66%/năm).
Năm 2018, ĐBSCL đứng đầu cả nước về sản lượng lúa, tôm, cá tra và trái cây: sản lượng lúa 24,5 triệu tấn, chiếm 56% tổng sản lượng của cả nước; sản lượng tôm 0,623 triệu tấn, chiếm 83,5%; sản lượng cá tra 1,41 triệu tấn, chiếm 95%; sản lượng trái cây 4,3 triệu tấn, chiếm 60%.
Năm 2019, tổng kim ngạch xuất khẩu các nông sản chủ lực của ĐBSCL là 8,43 tỷ USD (chiếm 20% cả nước), kim ngạch xuất khẩu gạo là 2,45 tỷ USD (chiếm 80% cả nước); kim ngạch xuất khẩu cá tra là 2,15 tỷ USD (chiếm 95% của cả nước); kim ngạch xuất khẩu tôm là 2,13 tỷ USD (chiếm 60% cả nước); và kim ngạch xuất khẩu trái cây là 1,7 tỷ USD (chiếm 65% cả nước).
Để Nghị quyết 120 thực sự là “nghị quyết vàng”, ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển của 20 triệu dân ĐBSCL, theo ông thời gian tới đây chúng ta cần làm gì?
Trong giai đoạn 5 năm tới, trên cơ sở Chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành, các Bộ ngành, địa phương ĐBSCL sẽ đề xuất các dự án đưa vào Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025.
Trong đó cần chú trọng ưu tiên các dự án có quy mô vùng, liên vùng thích ứng biến đổi khí hậu. Khẩn trương bổ sung nguồn vốn thực hiện Chương trình hỗ trợ chính sách phát triển vùng (1,05 tỷ USD); nguồn vốn đầu tư thông qua các định chế tài chính, tổ chức tín dụng để triển khai các dự án phát triển bền vững ĐBSCL.
Phát huy vai trò Hội đồng Điều phối vùng với sự tham gia tích cực hiệu quả của các địa phương trong vùng; tăng cường rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, đặc biệt là huy động nguồn lực thông qua đối tác công - tư, tập trung đất đai phục vụ chuyển đổi quy mô lớn, quy hoạch các khu vực trồng lúa chuyển đổi mục đích linh hoạt để chủ động trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất phù hợp với điều kiện tự nhiên từng năm.
Sớm ban hành Quy hoạch vùng làm căn cứ để triển khai kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của các tỉnh; triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp phát triển các tỉnh, thành phố theo các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước nhằm thúc đẩy chuyển đổi quy mô lớn, đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu hợp lý. Đồng thời tổng kết những bài học kinh nghiệm để nhân rộng cho các vùng khác trong cả nước, đóng góp mô hình phát triển bền vững cho thế giới.
Trân trọng cảm ơn ông!