Hiện đại hóa hạ tầng thủy lợi để thích ứng biến đổi khí hậu

Sông Vàm Cỏ Đông trĩu nặng phù xa chảy qua địa bàn tỉnh Tây Ninh với chiều dài 105km, đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển hàng hóa và cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp. Con sông này không chỉ giữ ngọt, đẩy phèn, thoát lũ mà còn góp phần bảo vệ đời sống của hàng ngàn người dân sinh sống ven sông. Tuy nhiên, thiên tai và ngập lụt luôn là một mối đe dọa đáng lo ngại, đặc biệt là vào mùa mưa lũ, khi sản xuất nông nghiệp ở những vùng ven sông đối diện nguy cơ thiệt hại nặng nề.

Để đối phó với tình trạng này, từ năm 2002, ngành nông nghiệp tỉnh Tây Ninh đã đầu tư xây dựng hệ thống đê bao kết hợp với giao thông nội đồng nhằm bảo vệ các vùng sản xuất nông nghiệp. Tính đến nay, tỉnh đã hoàn thiện 24 tuyến đê với tổng chiều dài 82,844km, bảo vệ khoảng 2.709ha đất sản xuất nông nghiệp.

Ông Trần Quang Vinh, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi Tây Ninh, chia sẻ: “Hệ thống đê bao đã ngăn lũ, chống ngập rất hiệu quả. Nhờ đó, nông dân có thể tăng số vụ canh tác, nâng cao năng suất và thu nhập. Ngoài ra, hành lang đê cũng giúp cải thiện hạ tầng giao thông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển nông sản và cơ giới hóa đồng ruộng.”

Vùng biên giới xã Phước Chỉ, thuộc thị xã Trảng Bàng, là một trong những khu vực sản xuất nông nghiệp trọng điểm của tỉnh. Tại đây, hệ thống đê bao đã giúp người dân yên tâm sản xuất, mở rộng diện tích trồng lúa và phát triển các loại cây trồng khác.

Ông Ngô Văn Bình, Phó Chủ tịch UBND xã Phước Chỉ, cho biết: “Nhờ có hệ thống đê bao, chúng tôi đã tăng được số vụ trồng lúa từ 2 vụ lên 3 vụ mỗi năm. Điều này không chỉ giúp giảm chi phí sản xuất mà còn tăng hệ số sử dụng đất, đạt mức 103 triệu đồng/ha/năm”.

Nông dân Cao Ngọc Điệp, sống tại ấp Phước Trung, xã Phước Chỉ, cũng chia sẻ về những thay đổi tích cực mà đê bao mang lại cho cuộc sống người dân. “Trước khi có đê bao, vào mùa mưa, chúng tôi thường xuyên đối mặt với tình trạng ngập lụt, ảnh hưởng xấu đến năng suất lúa. Nhưng từ khi có hệ thống đê bao bảo vệ, không chỉ chúng tôi có thể tăng vụ sản xuất, mà còn giảm đáng kể chi phí vận chuyển, giúp thu nhập gia đình cải thiện rõ rệt.”

Theo Phòng Kinh tế thị xã Trảng Bàng, toàn thị xã hiện có hơn 26.000ha đất sản xuất nông nghiệp, trong đó vùng ven sông Vàm Cỏ chiếm khoảng 7.000ha, chủ yếu trồng lúa. Hệ thống đê bao hiện đã đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu sản xuất nông nghiệp cho các vùng ven sông này.

Ông Nguyễn Phước Nhiên, Trưởng phòng Kinh tế thị xã Trảng Bàng, cho biết: “Thị xã Trảng Bàng đang hướng đến phát triển vùng nông nghiệp công nghệ cao, với mục tiêu xây dựng vùng lúa chất lượng cao trên diện tích khoảng 200ha. Hệ thống đê bao chính là nền tảng vững chắc để đảm bảo cho sự phát triển này”.

Bên cạnh đó, đê bao không chỉ đóng vai trò bảo vệ vùng sản xuất mà còn được xem như "thành trì vững chắc" trước thiên tai, giúp đảm bảo an toàn và phát triển bền vững cho người dân. Tuy nhiên, ông Ngô Văn Bình cũng cho biết, hiện địa phương vẫn còn thiếu khoảng 25km đê bao chưa hoàn thiện, dẫn đến một số vùng sản xuất vẫn đối mặt với nguy cơ ngập lụt. Hơn nữa, do nguồn lực đóng góp từ người dân còn hạn chế, thị xã Trảng Bàng đã kiến nghị tỉnh tiếp tục đầu tư để hoàn thiện hệ thống đê bao, giúp bảo vệ toàn diện hơn cho các khu vực ven sông, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

Ông Trần Quang Vinh, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi Tây Ninh cũng chỉ ra rằng, đê bao không chỉ ngăn lũ hiệu quả mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân cải thiện đời sống. Hệ thống này đã giúp vùng đất ven sông trước kia thường xuyên ngập lụt trở thành những cánh đồng màu mỡ, xanh tươi quanh năm. Sự cải thiện trong hạ tầng giao thông và sự ổn định trong canh tác nông nghiệp đã mở ra nhiều cơ hội phát triển cho người dân, từ việc tăng năng suất lúa đến việc đa dạng hóa cây trồng, từng bước nâng cao giá trị nông sản.

Đặc biệt, vùng đất ven sông Vàm Cỏ với hệ thống đê bao giờ đây không chỉ là nơi sản xuất lúa mà còn hướng đến phát triển các loại cây trồng chất lượng cao, ứng dụng công nghệ trong sản xuất để nâng cao hiệu quả và giá trị kinh tế. Đây là bước đi chiến lược của tỉnh Tây Ninh nhằm phát triển một nền nông nghiệp bền vững, phù hợp với xu hướng và yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường.

Hệ thống thủy lợi có vai trò quan trọng trong điều tiết nguồn nước, phục vụ sản xuất nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Video: Trần Trung.

Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, Tây Ninh vẫn tiếp tục đối mặt với thách thức trong việc hoàn thiện và mở rộng hệ thống đê bao. Nhu cầu mở rộng diện tích bảo vệ, tăng cường khả năng chống lũ và cải thiện hạ tầng giao thông còn là bài toán cần được giải quyết. Chính quyền địa phương cũng đang tích cực kêu gọi sự hỗ trợ từ trung ương để có thể nhanh chóng hoàn thiện toàn bộ hệ thống đê bao, giúp người dân yên tâm sản xuất và phát triển kinh tế.

“Nhìn chung, hệ thống đê bao ven sông Vàm Cỏ Đông đã và đang chứng minh vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển vùng sản xuất nông nghiệp. Sự đầu tư kịp thời và bài bản của tỉnh Tây Ninh không chỉ giúp nâng cao đời sống người dân mà còn góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đồng thời giữ vững an ninh lương thực và ổn định sản xuất trước những biến động của thời tiết”, ông Trần Quang Vinh nhấn mạnh.

Tây Ninh là một trong những tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ của Việt Nam, nổi bật với hệ thống thủy lợi phát triển, đặc biệt là hồ Dầu Tiếng – hồ nhân tạo lớn nhất Đông Nam Á. Hồ Dầu Tiếng đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nguồn nước, giúp cắt lũ vào mùa mưa và chống hạn vào mùa khô cho các khu vực hạ du. Tuy nhiên, để đảm bảo nguồn nước được phân phối đến từng cánh đồng và nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, hệ thống thủy lợi nhỏ và thủy lợi nội đồng được xem như là "tế bào" quan trọng trong hệ thống thủy lợi của tỉnh, giữ vai trò thiết yếu trong việc phát triển nông nghiệp bền vững.

Ngành nông nghiệp tỉnh Tây Ninh đã xác định tầm quan trọng của các công trình thủy lợi nhỏ và thủy lợi nội đồng. Việc phát triển hệ thống này không chỉ giúp đáp ứng nhu cầu nước trong sản xuất nông nghiệp mà còn góp phần phòng chống thiên tai, bảo vệ mùa màng. Để phát huy tối đa hiệu quả, tỉnh đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ xây dựng và nâng cấp các công trình thủy lợi nhằm đảm bảo việc sử dụng nước được hiệu quả và bền vững hơn.

Theo ông Trần Quang Vinh, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Tây Ninh, hiện nay toàn tỉnh có gần 2.000km kênh mương thủy lợi, trong đó kênh mương nội đồng dài gần 500km. Tuy nhiên, khoảng 25% chiều dài kênh nội đồng vẫn chưa được kiên cố hóa, dẫn đến tình trạng sạt lở và thất thoát nước, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến mùa màng và sản lượng nông nghiệp. Ông Vinh cho biết, việc đầu tư, duy tu và quản lý các công trình thủy lợi nhỏ vẫn còn là một thách thức lớn đối với địa phương, đặc biệt khi nguồn lực đầu tư còn hạn chế.

Mỗi năm, tỉnh Tây Ninh chi khoảng 3 tỷ đồng từ ngân sách sự nghiệp thủy lợi và 23 tỷ đồng từ nguồn hỗ trợ dịch vụ công ích thủy lợi để sửa chữa và duy trì các công trình thủy lợi nhỏ. Tuy nhiên, do chính sách không thu phí dịch vụ thủy lợi nhằm hỗ trợ người dân sản xuất, nguồn vốn để đầu tư cho các công trình thủy lợi nhỏ và nội đồng chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tế. Để giải quyết vấn đề này, Hội đồng nhân dân tỉnh Tây Ninh đã ban hành nghị quyết hỗ trợ 70% chi phí sửa chữa các kênh mương và cống thoát nước, trong khi người dân đóng góp 30% còn lại. Chính sách này đã giúp nhiều tuyến kênh nội đồng được kiên cố hóa, từ đó phục vụ tốt hơn cho hoạt động sản xuất nông nghiệp.

Một ví dụ điển hình về hiệu quả của việc kiên cố hóa kênh mương nội đồng là tại cánh đồng Suối Dột, xã Thái Bình, huyện Châu Thành. Trước đây, nông dân tại đây không thể sản xuất vụ thu đông do tình trạng thiếu nước trầm trọng. Tuy nhiên, kể từ khi tuyến kênh nội đồng Suối Dột được nâng cấp bằng bê tông, người dân đã có thể yên tâm canh tác.

Ông Lại Văn Ninh, một nông dân sống tại ấp Suối Dột, chia sẻ: "Trước đây, chúng tôi gặp nhiều khó khăn trong việc lấy nước vì kênh đất thường xuyên bị lấp đầy bởi bùn đất và cỏ dại. Nhưng từ khi có kênh bê tông, việc lấy nước trở nên thuận lợi hơn rất nhiều, chỉ mất khoảng 2 giờ để cung cấp đủ nước cho cả cánh đồng. Điều này giúp chúng tôi tiết kiệm thời gian, công sức và tăng hiệu quả sản xuất".

Cùng với việc kiên cố hóa kênh mương, cộng đồng địa phương cũng đã tự nguyện hiến đất và đóng góp công sức để xây dựng các tuyến đường ven kênh. Ông Đỗ Văn Hạnh, trưởng ấp Suối Dột, cho biết: "Ngoài việc có kênh bê tông mới, bà con trong ấp đã cùng nhau hiến đất để xây dựng tuyến đường rộng hơn 2m dọc theo kênh, giúp cho việc vận chuyển vật tư và nông sản thuận lợi hơn. Điều này không chỉ cải thiện hạ tầng giao thông mà còn thúc đẩy hoạt động sản xuất nông nghiệp hiệu quả hơn".

Theo Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Châu Thành, toàn huyện hiện có 419 tuyến kênh thủy lợi nhỏ và nội đồng, cũng như các tuyến suối, rạch có khả năng tiêu thoát nước với tổng chiều dài 94km. Để đáp ứng nhu cầu tưới tiêu cho diện tích đất sản xuất nông nghiệp rộng lớn, huyện đã đầu tư xây dựng 34 công trình thủy lợi, phục vụ tưới tiêu cho khoảng 4.754ha đất sản xuất.

Ông Nguyễn Minh Lý, Phó Trưởng Phòng Kinh tế huyện Châu Thành, nhấn mạnh rằng: "Việc kiên cố hóa hệ thống thủy lợi là một bước đi cần thiết để tiết kiệm nước, tăng hiệu quả sử dụng trong sản xuất nông nghiệp, đồng thời giảm thiểu tác động của thiên tai".

Các công trình thủy lợi nhỏ tại Tây Ninh đã và đang phát huy vai trò quan trọng trong việc đảm bảo nguồn nước tưới tiêu ổn định cho các cánh đồng. Nhờ hệ thống này, người dân đã cải thiện năng suất sản xuất và điều kiện sống, đồng thời nâng cao khả năng chống chịu trước những biến đổi khó lường của khí hậu. Việc phát triển các công trình thủy lợi nhỏ, nội đồng cũng đồng thời tạo ra cơ sở vững chắc cho phát triển nông nghiệp bền vững và thích ứng với bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp.

Tuy nhiên, dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực, Tây Ninh vẫn đối mặt với nhiều thách thức trong việc mở rộng và nâng cấp hệ thống thủy lợi nhỏ và nội đồng. Để đảm bảo hiệu quả trong việc điều tiết nước, tỉnh cần tiếp tục đầu tư vào các công trình này, đồng thời tìm kiếm thêm các nguồn lực hỗ trợ từ trung ương và các tổ chức quốc tế. Chỉ khi hệ thống thủy lợi nhỏ và nội đồng được phát triển đồng bộ và kiên cố hóa hoàn toàn, người dân mới có thể yên tâm canh tác và phát triển kinh tế lâu dài.

Do đó, việc phát huy vai trò của các công trình thủy lợi nhỏ và nội đồng tại Tây Ninh không chỉ giúp nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp mà còn là một chiến lược quan trọng trong việc đối phó với biến đổi khí hậu, từ đó đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững của tỉnh trong tương lai.

Giao thông được xem là "đột phá" trong phát triển thương mại - dịch vụ và hạ tầng, thì thủy lợi là “cái gốc” để phát triển nông nghiệp bền vững. Hệ thống thủy lợi không chỉ giúp thâm canh tăng vụ, nâng cao năng suất mà còn hỗ trợ chống ngập úng trong mùa mưa bão và hạn hán trong mùa khô. Nhiều người dân Tây Ninh nói rằng: “Có nước là có tất cả”. Vì vậy, ngay từ những năm đầu sau giải phóng, tỉnh đã chú trọng đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi song song với phát triển nông nghiệp.

Theo Chi cục Thủy lợi Tây Ninh, nhờ đầu tư kịp thời, tỉnh đã phát triển một trong những hệ thống thủy lợi hoàn thiện và lớn nhất cả nước, với tổng chiều dài các tuyến kênh trên 2.000km, đảm bảo nước tưới quanh năm cho sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, khu vực phía Tây sông Vàm Cỏ Đông, với đặc điểm đất cao, thường xuyên đối mặt với tình trạng thiếu nước tưới vào mùa khô, gây khó khăn cho nông dân tại các huyện Châu Thành và Bến Cầu.

Người dân địa phương cho biết, những năm gần đây, hạn hán diễn ra bất thường, giếng khoan cạn nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp. Để đối phó, nhiều người phải đào sâu hơn giếng khoan và đặt máy bơm sâu dưới đất, nhưng vẫn không giải quyết được vấn đề nước tưới.

Sau nhiều năm chờ đợi, dự án thủy lợi tưới tiêu khu vực phía Tây sông Vàm Cỏ Đông đã hoàn thành giai đoạn I vào cuối năm 2022 với tổng vốn đầu tư hơn 1.200 tỷ đồng. Dự án có chiều dài 117,8 km, dẫn nước từ hồ Dầu Tiếng qua sông Vàm Cỏ Đông, cung cấp nước cho các huyện biên giới Châu Thành và Bến Cầu. Đầu năm 2023, hệ thống đã được nghiệm thu và đưa vào khai thác, đáp ứng nhu cầu nước tưới cho một phần diện tích sản xuất nông nghiệp.

Tại xã biên giới Thành Long, huyện Châu Thành, người dân rất phấn khởi khi được cấp nước từ hệ thống thủy lợi mới. Ông Danh Kun, một nông dân tại xã Thành Long, chia sẻ: "Trước đây, chúng tôi gặp nhiều khó khăn trong việc tưới tiêu, phải sử dụng máy bơm dầu rất tốn kém. Nhưng từ khi có hệ thống kênh mới, tình hình sản xuất đã được cải thiện đáng kể."

Ông Kun còn cho biết thêm: "Không chỉ cây lúa, giờ đây chúng tôi có thể chuyển sang trồng các loại hoa màu và cây ăn quả. Tuy nhiên, chúng tôi mong muốn nhà nước tiếp tục mở rộng hệ thống kênh nhánh để đáp ứng tốt hơn nhu cầu nước tưới, giúp nâng cao thu nhập cho nông dân".

Theo ông Nguyễn Đình Xuân, Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Tây Ninh, sau giai đoạn I, vẫn còn 114km kênh đất chưa được kiên cố. Kênh đất khi vận hành thường gặp khó khăn do nước bị thấm, tốc độ dòng chảy chậm, dễ xảy ra xói lở, ảnh hưởng đến việc cấp nước kịp thời. Việc duy tu, bảo dưỡng kênh đất cũng rất tốn kém và mất nhiều thời gian.

UBND tỉnh Tây Ninh đã lên kế hoạch triển khai giai đoạn II của dự án, với tổng kinh phí 600 tỷ đồng, trong đó 100 tỷ đồng từ ngân sách địa phương đã được phân bổ. Tỉnh Tây Ninh dự kiến tháng 9/2024 sẽ bắt đầu triển khai xây dựng các hạng mục từ nguồn vốn của tỉnh. Nếu nhận được 500 tỷ đồng từ vốn trung ương, dự án dự kiến sẽ hoàn thành vào quý II/2025.

Ông Nguyễn Đình Xuân khẳng định: "Dự án tưới tiêu Tây sông Vàm Cỏ Đông có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân hai huyện Châu Thành và Bến Cầu. Dự án sẽ cấp nước cho 16.953ha đất nông nghiệp và cung cấp nước cho công nghiệp, sinh hoạt và chăn nuôi với lưu lượng 1 mét khối/giây."

Dự án không chỉ đảm bảo nguồn nước cho các xã biên giới, mà còn giúp phát triển vùng nông nghiệp bền vững, nâng cao giá trị cây trồng, góp phần cải thiện đời sống người dân và giữ vững an ninh quốc phòng vùng biên giới. Tây Ninh đang từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng nước, hướng đến phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nhu cầu nước ngày càng gia tăng”.

Trần Trung
Trọng Toàn
Trần Trung