Tiếng làng Cóc

. - Thứ Tư, 20/07/2022 , 06:37 (GMT+7)

Lịch sử của làng Cóc cũng li kỳ lắm, nhưng lạ nhất là 'tiếng làng Cóc'. Họ nói to đến nỗi lúc nào cũng như đang ráng hết sức mà gọi nhau.

Bình dị sông Yên.

Bình dị sông Yên.

Sông Yên đã chia hai, bên này là Tĩnh Gia (Thanh Hóa), bên kia là Nông Cống. Nhưng lạ, suốt một vệt dài đất Tĩnh Gia lại lọt thỏm một khóm nhỏ, làng Cóc, ngôi làng của Nông Cống. Lịch sử của làng Cóc cũng li kỳ lắm, nhưng lạ nhất là “tiếng làng Cóc”. Họ nói to đến nỗi lúc nào cũng như đang ráng hết sức mà gọi nhau. Không biết từ bao giờ, quê tôi có câu thành ngữ “tiếng Làng Cóc” để chỉ cái sự nói to khác thường ấy.

Ngày xưa, bên kia sông là làng May, rồi không biết dâu bể thế nào, có “5 ông” đã bỏ làng, vượt sông về bên này, dựng nhà, lập ấp. Chuyện xảy ra đã hơn hơn trăm năm trước. Trải bao thăng trầm, đến nay làng vẫn nhỏ, chỉ có khoảng 50 gia đình với một con đường duy nhất chạy xuyên qua làng, để về hai đầu là hai ngôi làng đều của đất Tĩnh Gia.

Cái tên làng Cóc cũng đáng yêu. Từ khởi thủy, khi 5 ông lội qua sông sang lập ấp, họ lấy hòn đá nổi ngay đầu làng để làm mốc, phân chia với đất Tào Sơn. Hòn đá ấy có hình như một con cóc đang đứng, với cái đầu nhô cao, nhìn về làng cũ - làng May. Thế là tên Làng Cóc ra đời.

Nay hòn đá vẫn còn đó, phải 5 - 6 người sải tay mới ôm hết được. Nhưng đầu của con cóc thì không còn nữa, cách đây vài chục năm, trong cơn đói ròng rã, dân làng đẽo đá bán, đầu cóc bị đánh bay.

Đồn rằng con cóc ấy rất thiêng, đụng vào thì gia biến, người ta đục được cái đầu cóc thì không dám nữa. Xưa hòn đá cóc là địa giới, nhưng nay đã nằm lọt thỏm vào khu vườn của một hộ dân ở đầu làng, vì hộ ấy lấn dần ra. Người ta san đất làm vườn, bao nhiêu vật đổi sao dời nhưng con cóc cụt đầu thì vẫn còn đó, không ai dám phá đi.

Lại nói chuyện “tiếng làng Cóc”. Tôi lang thang vào làng, hỏi các cụ, rằng tại sao dân mình lại nói to đến vậy. Các cụ bảo “do nước”. Nước ở đây nặng, nên ăn nước đó thì nói to. Nhưng xung quanh chân núi này nào là Tào Sơn, Cổ Trinh, làng Kiếu, làng Áng… đâu có chỗ nào nói to như thế! Duy chỉ có làng Cóc. Người ta còn chế ra câu chuyện vui rằng, người làng Cóc kêu gà (gọi gà để cho ăn) mà gà làng Trúc chạy về. Làng trúc cách một con sông, một cánh đồng, vượt qua một con đê nữa thì mới tới! Kể thế để thấy dân làng Cóc nói to đến thế nào. Nếu ngồi đối diện, dù chỉ có hai người, dân làng Cóc cũng nói như thể đang cách nhau một con sông, thấy gân cổ nổi lên, to bằng ngón tay!

Tôi thì muốn hiểu rằng, khi ly hương, những người con đầu tiên của làng Cóc vẫn còn ngóng về làng cũ bên kia sông. Họ vẫn còn giao giao tiếp, vẫn còn trò chuyện, vẫn còn gọi nhau. Xưa chỉ có đò, con đò nhỏ chứ không phải cây cầu bê tông như bây giờ nên việc đi lại khó khăn. Làng cũ lại không cách xa, chỉ đúng một quãng sông ấy. Bên kia là làng May trên bãi bồi ven sông, bên này là làng Cóc dưới chân núi.

Tôi muốn nghĩ về lòng thương nhớ làng cũ, về tiếng gọi nhau mỗi sáng mỗi chiều. Người ta phải ráng sức mà nói cho thật to để người bên kia sông nghe thấy. Cứ thế thành quen… Nói to trở thành một thói quen, thành một “di sản” của tình yêu làng và sự thương nhớ khôn nguôi.

Làng May giờ không còn ở đó nữa, sau mấy đận lụt lớn, cách đây khoảng 50 năm người ta đã đưa cả làng vào trong đê định cư.

Tôi tìm gặp dân làng May cũ và trò chuyện cùng họ, lạ thay, họ không nói to như dân làng Cóc, dù vốn cùng một gốc sinh ra. Điều ấy lại càng có ý nghĩa đối với cái ý nghĩ có phần suy diễn nhưng lấp lánh thương nhớ của tôi.

Kể từ ngày 5 ông mang theo gia đình về dưới chân núi này, trải đến nay đã mười mấy thế hệ. Làng May cũng không còn nữa. Không còn ai ngày ngày ra bến sông để gọi về chốn cũ. Nhưng “tiếng làng Cóc” thì không mất. Tiếng nói như sấm rền ấy vẫn dội vào vách núi, vẫn lênh láng khắp mặt sông, khắp đồng bãi.

Cái sự sinh ra và bảo tồn một cách kỳ lạ ấy, dường như cũng chính là khởi nguyên của những đặc điểm, của những điệu hồn trên khắp xứ sở này. Dù vật đổi sao dời, nhưng những gì sinh ra từ đời sống, từ tình tình cảm con người thì bền hơn đá núi.

Thế hệ hôm nay của làng Cóc có bao nhiêu người còn biết cội nguồn của mình, có bao nhiêu người còn lòng thương nhớ quắt quay như cha ông thủa trước? Có lẽ không còn nữa. Nhưng cái tình yêu ấy, cái mong ngóng và khát thèm ấy thì vẫn vẹn nguyên trong giọng nói.

Ai sẽ bảo cho họ biết rằng đó là giọng của thương nhớ, giọng của ly hương trông ngóng? Kỳ lạ thay, dù biết dù không, con người vẫn sống bằng sự di truyền mãnh liệt của những thổn thức xa xưa mà cha ông họ từng mang...

Thái Hạo

Bài viết cho chuyên mục xin được gửi về Báo Nông nghiệp Việt Nam, 14 Ngô Quyền, Hà Nội. Email: baonnvnts@gmail.com.

Hoặc liên hệ người phụ trách chuyên mục: Ông Tô Đức Huy, Trưởng ban Thư ký Tòa soạn; Điện thoại: 0913.378.918; Email: toduchuy75@gmail.com.

 
.
Đôi điều suy nghĩ của một Phật tử về câu chuyện xung quanh ông Minh Tuệ
Đôi điều suy nghĩ của một Phật tử về câu chuyện xung quanh ông Minh Tuệ6

Là một Phật tử, theo dõi hành trình và xem gần hết các video trên mạng về ông Minh Tuệ, chúng tôi nhận thấy văn bản của Giáo hội Phật giáo Việt Nam có thể gây hiểu lầm.

Tác giả trẻ phủ sóng một cuộc thi Thơ Hay
Tác giả trẻ phủ sóng một cuộc thi Thơ Hay

Tác giả trẻ thuộc thế hệ 8X, 9X đã chiếm ưu thế tuyệt đối tại cuộc thi Thơ Hay vừa tổ chức trao giải thưởng vào sáng 16/5 tại TP.HCM.

Nhân hiện tượng Minh Tuệ: Đi tu để được gì?
Nhân hiện tượng Minh Tuệ: Đi tu để được gì?10

Hiện tượng ông Minh Tuệ một lần nữa nhắc cho ta biết rằng cũng như trong căn nhà đóng kín, chúng ta sẽ không thấy được gì, nhưng chỉ cần một tia sáng lọt vào, lập tức thấy bụi bặm nhảy múa đảo điên.

Thổn thức cùng sông Nghèn
Thổn thức cùng sông Nghèn

Quy luật muôn đời là các dòng sông đều chảy, nhưng khi thực hiện dự án 'ngọt hóa', thau chua rửa mặn thì sông Nghèn thành dòng sông duy nhất ở Việt Nam... không chảy.

Từ trường hợp Minh Tuệ: Y pháp bất y nhân
Từ trường hợp Minh Tuệ: Y pháp bất y nhân1

Câu ấy có nghĩa là [người tu phải] căn cứ vào giáo pháp (chân lý) chứ không được căn cứ vào cá nhân.

Tác phẩm hay trong sự tiếp nhận hiện nay như thế nào?
Tác phẩm hay trong sự tiếp nhận hiện nay như thế nào?

‘Tác phẩm hay trong sự tiếp nhận hiện nay’ là cuộc tọa đàm văn chương giữa các tác giả thuộc Hội Nhà văn TP.HCM và Hội Văn học nghệ thuật Phú Yên.

Bên dòng Kiến Giang huyền thoại
Bên dòng Kiến Giang huyền thoại6

Sự hiểu biết cùng cảm xúc rất đặc biệt của cô bé Hà Nội 12 tuổi về đất và người Lệ Thủy, Quảng Bình.

'Dân Ông Tạ' cất giữ một phần ký ức đô thị phương Nam
'Dân Ông Tạ' cất giữ một phần ký ức đô thị phương Nam

'Dân Ông Tạ' là cộng đồng người gốc Bắc di cư vào nam, được tác giả Cù Mai Công phản ánh trong bộ sách 'Sài Gòn một thuở - Dân Ông Tạ đó'.

Viết ngược từ theo sở thích làm méo mó ngôn ngữ Việt
Viết ngược từ theo sở thích làm méo mó ngôn ngữ Việt

Gần đây, trường hợp viết đảo ngược từ xuất hiện tràn lan và ngày một phát triển. Có cơ hội, có dịp là đảo ngược. Đảo lấy được. Nhà văn, nhà báo cũng đua nhau viết ngược từ.

Chùa Một Cột trên thành phố bị lãng quên Bandipur, Nepal
Chùa Một Cột trên thành phố bị lãng quên Bandipur, Nepal

Đi hành hương lần này, đoàn chúng tôi có 8 người. Đi một chuyến đi 'lịch sử đời người', vì sẽ đến những nơi chưa từng đến, những nơi mà để đến được, thì vô cùng khó khăn mới đến được, nhưng đã đến được thì quá xứng đáng để đi. Đến dãy Núi Tuyết Hy Mã Lạp Sơn, và thành phố cổ Bandipur...

Giá trị tiếng Việt kết nối cội nguồn người Việt khắp nơi
Giá trị tiếng Việt kết nối cội nguồn người Việt khắp nơi

Giá trị tiếng Việt trong tâm hồn người Việt, một lần nữa được nhắc nhớ qua chương trình đặc biệt kỷ niệm Giỗ tổ Hùng Vương trên Nông nghiệp Radio tối nay (18/4).

Giỗ Tổ nhớ 'Cảm tưởng của ta về Hội đền Hùng' của cụ Dương Bá Trạc
Giỗ Tổ nhớ 'Cảm tưởng của ta về Hội đền Hùng' của cụ Dương Bá Trạc

Nhà báo, nhà văn Dương Bá Trạc (1884-1944), hiệu Tuyết Huy, là anh trai của nhà giáo Dương Quảng Hàm. Cụ cùng các chiến sĩ đã sáng lập phong trào Đông Kinh nghĩa thục.