Phát hiện vùng làm muối cổ xưa của cư dân Sa Huỳnh

TS Đoàn Ngọc Khôi - Thứ Ba, 09/07/2024 , 10:12 (GMT+7)

Di tích văn hóa Sa Huỳnh là nơi phát hiện đầu tiên và xác lập tên gọi Văn hóa Sa Huỳnh, được các nhà khảo cổ học khai quật nghiên cứu trong thế kỷ 20.

                                                        

Các nhà nghiên cứu đi thực địa nghề muối ở Sa Huỳnh.

Từ các vùng làm muối cổ xưa của nhân loại

Các nghiên cứu khảo cổ, dân tộc học đã chứng minh người cổ đại tạo ra muối thông qua sự bốc hơi của mặt trời hoặc đun sôi nước muối, và trong hầu hết các trường hợp, đặc biệt là ở thời tiền sử ở châu Âu và châu Á. Nước muối được lấy từ nước muối nội địa suối và hồ có độ mặn cao.

Muối có hai dạng cơ bản: Muối mỏ và muối phơi nước từ biển. Trong đó muối mỏ chiếm vị trí chủ yếu trong hoạt động khai thác và sử dụng của con người, muối sản xuất thủ công phơi nước chiếm tỷ lệ khoảng 20%.

Trên thế giới việc sản xuất muối diễn ra rất sớm ở vùng văn hóa Lưỡng Hà với sự phát triển của văn minh đô thị ở Syro-Mesopotamia trong thiên niên kỷ thứ tư B.C, người ta phát hiện Qraya nằm bên sông Euphrates là nơi sản xuất muối để cung cấp cho thành phố Syro-Mesopotamiac. [1].

Văn hóa Liangzhu được công nhận là xã hội “nhà nước” đầu tiên ở phương Đông và phát triển ở phía Đông Trung Quốc đồng bằng ven biển ở 3.300 năm trước Công nguyên. Nền kinh tế dựa vào nông nghiệp trồng lúa, đặc trưng các khu định cư với đô thị cổ, kỹ thuật chế tác ngọc bích tinh xảo và nghề làm muối.

Địa điểm Daxie thời kỳ đồ đá mới, trên đảo Daxie cùng tên ngoài khơi bờ biển Hoa Đông được công nhận là địa điểm sản xuất muối biển sớm nhất được khai quật cho đến nay ở Trung Quốc, cung cấp bằng chứng cho thấy việc sản xuất muối biển ở bờ biển phía Đông Trung Quốc đã được các cộng đồng thời kỳ đồ đá mới áp dụng [2].

Việt Nam, một quốc gia ở xứ nhiệt đới, có hơn 3.200km đường bờ biển với đặc điểm nổi bật của thềm lục địa thoải và kín gió, có thể nhìn thấy rất nhiều làng muối hiện diện trên khắp miền duyên hải, từ Bắc chí Nam.

Trong đó miền Trung vùng đất của văn hóa Sa Huỳnh luôn tiếp cận với nhiều luồng hải thương quốc tế, các tuyến thương mại nối từ cửa biển lên thượng nguồn đi sâu vào lục địa, đã khiến cho nơi này có số lượng lớn về các diêm trường, từ đây muối sẽ mang đi khắp nơi qua hệ thống cảng thị cửa biển, qua các phiên chợ nguồn ở miền núi.

Muối là thành phần thiết yếu trong chế độ ăn uống của con người; nó cũng được sử dụng để lưu trữ và vận chuyển cá và thịt từ thời tiền sử. Do đó, muối thậm chí có thể cung cấp nền tảng kinh tế cho một cộng đồng hoặc đóng vai trò là phương tiện tương tác xã hội, điều này có thể đã thúc đẩy quá trình đô thị hóa và hình thành các xã hội phức tạp ban đầu.

Muối thậm chí có thể cung cấp cơ sở kinh tế cho một cộng đồng hoặc đóng vai trò là phương tiện tương tác xã hội, điều này có thể đã thúc đẩy quá trình các đô thị cổ và hình thành các tổ chức xã hội phức tạp ban đầu.

Cư dân Văn hóa Sa Huỳnh đã đạt đến trình độ đỉnh cao trong rèn luyện sắt, nấu đúc thủy tinh, đương nhiên họ đã biết đến nghề muối từ rất sớm. Trong bản đồ phân bố các di tích văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam, các địa điểm Sa Huỳnh quan trọng đều nằm gắn liền với cửa sông ra biển và cánh đồng muối.

Trường hợp cụ thể đối chiếu với vùng Quảng Ngãi thì ta sẽ thấy quan hệ gắn bó giữa nơi cư trú của người Sa Huỳnh với cửa sông biển và cánh đồng muối, đó là: Di tích Sa Huỳnh – cửa Sa Huỳnh – đồng muối Tân Diêm; Di tích Bình Châu – cửa Sa Kỳ - đồng muối Diêm Điền (đã mất); Di tích Gò Quê – cửa Sa Cần – đồng muối Tuyết Diêm (đã mất).

Đây là bằng chứng khảo cổ phản ánh hoạt động sản xuất muối của người Sa Huỳnh, nơi đây trở thành đầu mối giao thương trên biển và vận chuyển theo đường sông lên các điểm Sa Huỳnh núi lan tỏa theo đường rừng đến các buôn, nóc, plei ở vùng núi cao nguyên xa xôi, muối của cư dân Sa Huỳnh là phương tiện tương tác xã hội, là động lực giao lưu hai chiều xuôi – ngược.

Đến sự tiếp nối truyền thống của diêm dân ngày nay

Làm muối trên mặt đá.

Vào ngày hè trưa nắng, nhiệt độ lên tới 40 độ C, tôi cùng chị Bùi Thị Vân, Nguyễn Thị Gá và cháu Trần Thị Thu Thủy đi đến vùng Trảng Muối, đó là vùng có nền mặt đá bằng phẳng, nơi tổ tiên của họ xưa kia đã làm muối trên mặt đá.

Trảng Muối là tên gọi địa phương, là vùng bằng phẳng chuyên làm muối trên mặt đá. Trảng Muối có nền đá lộ thiên có độ bền tốt, đảm bảo tồn tại lâu dài dưới sự xói mòn liên tục của sóng biển nước biển và cảnh quan di sản ruộng muối được lưu giữ cho đến ngày nay.

Trảng Muối có diện tích khoảng 10 ha, một bên giáp biển, một bên giáp núi, nằm gần các khu cư trú và mộ táng của cư dân văn hóa Sa Huỳnh. Trảng Muối có 2 khu vực: Khu vực hồ chứa nước biển khá lớn, nước biển chảy vào tự nhiên theo triều cường và sóng, nước trong hồ chứa đã được giang nắng nên có độ mặn cao hơn nước biển bình thường. Khu vực ruộng muối trên đá là các ô nhỏ trên mặt đá được be bờ đất sét, hoặc hố trũng.

Từ hồ chứa nước biển đã được giang phơi, người ta dùng thùng nhỏ lấy nước đem đổ vào các ô ruộng muối. Khoảng 1 tuần nước biển phơi nắng sẽ bốc hơi trở thành tinh thể muối trắng óng ánh, hạt muối lớn hơn so với muối bình thường. Cư dân ở vùng xóm Cỏ hiện nay vẫn thực hành làm muối trên trảng đá ở Trảng Muối như tổ tiên xưa. Hầu hết các ô làm muối cổ có đặc điểm clorua xâm nhập với thời gian lâu dài vào lớp vỏ đá làm mòn, có màu sẫm đen.

Trảng Muối chính là nơi sản xuất muối biển phơi nước trên đá của cư dân văn hóa Sa Huỳnh khoảng hơn 2000 năm trước. So sánh với đồng muối cổ Dương Phố  ở Hải Nam, Trung Quốc có niên đại khoảng năm 800 sau Công nguyên.

Khu vực này bao gồm hơn 1.000 tảng đá, được cắt phẳng ở trên cùng, được sử dụng để làm bay hơi nước biển để sản xuất muối. Hai địa điểm này có chung một phương pháp phơi nước biển trên đá để kết tinh muối.

Làng muối Sa Huỳnh nằm trong không gian di tích quốc gia đặc biệt văn hóa Sa Huỳnh và là thành tố không thể tách rời với nền văn hóa khảo cổ này. Truyền thống làm muối biển liên tục kéo dài từ Sa Huỳnh – Champa – Đại Việt không bị đứt quãng. Cần thiết nghiên cứu quy hoạch địa điểm Trảng Muối nằm trong công viên di sản văn hóa muối Sa Huỳnh.

Văn hóa Sa Huỳnh là văn hóa khảo cổ thuộc thời đại kim khí được hình thành đỉnh cao văn minh vào thời kỳ đồ sắt có niên đại từ 500 năm trước công nguyên, kết thúc ở thế kỷ hai sau công nguyên, có nguồn gốc hình thành phát sinh và phát triển từ các văn hóa tiền Sa Huỳnh trước đó thuộc sơ kỳ đồng thau, Trung kỳ đồng thau (khoảng 1.500 - 500 trước công nguyên).

Phân bố của Văn hóa Sa Huỳnh là ở miền Trung Việt Nam, phía Bắc giao thoa với Văn hóa Đông Sơn ở Quảng Bình, phía Nam giao thoa với Văn hóa Đồng Nai ở Bình Thuận, phía Tây là rìa Tây Nguyên, vùng thung lũng Đông Trường Sơn, phía Đông vươn ra đảo gần bờ.

[1] Hopkinson, Giorgio Buccellati, The Qraya Salt Experiment. Reenacting Salt Production Processes of Protohistoric Mesopotamia Beatrice Cotsen Institute of Archaeology, UCLA

[2] Tongtong Zheng, Shao Lei, Zhanghua Wang, Wenjing Li, Shuwen Mei, Jiehua Wang, Michael E. Meadows; Prehistoric sea-salt manufacture as an adaptation strategy to coastal flooding in East China Quaternary Science Reviews journal homepage: www.elsevier.com/locate/quascirev

TS Đoàn Ngọc Khôi
Tin khác
Na sầu riêng gai to, trái nặng đến 3kg
Na sầu riêng gai to, trái nặng đến 3kg

Cần Thơ Một nông dân xã Trung Thạnh (huyện Cờ Đỏ) phát triển cây na sầu riêng mới lạ, trái nặng đến 3kg, giá cao, nông dân thu ‘trái ngọt’ trên vùng lúa kém hiệu quả.

Thương hiệu nhãn Ido Đồng Tâm của lão nông U70
Thương hiệu nhãn Ido Đồng Tâm của lão nông U70

Cần Thơ Hợp tác xã nhãn Ido Đồng Tâm ở TP Cần Thơ đang sản xuất nhãn theo hướng VietGAP, nhằm tạo dựng thương hiệu và kết nối tiêu thụ sản phẩm trong nước và xuất khẩu.

Tận dụng nguồn tài nguyên bản địa xây dựng thương hiệu trà lá ổi túi lọc
Tận dụng nguồn tài nguyên bản địa xây dựng thương hiệu trà lá ổi túi lọc

Đồng Tháp Với hương vị thơm dịu, thanh mát và có công dụng tốt cho sức khỏe, sản phẩm trà lá ổi túi lọc của anh Phan Hồi Hương đã được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng.

Học IPM, nông dân Quảng Ninh sản xuất giỏi, múa hát hay
Học IPM, nông dân Quảng Ninh sản xuất giỏi, múa hát hay

Bằng lời ca, tiếng hát, nông dân phường Kim Sơn (TP Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh) đã lan tỏa kiến thức, bài học từ chương trình IPM, giúp nâng cao chất lượng đồng ruộng.

Trồng quế đa dạng sinh học tăng năng suất, thu nhập
Trồng quế đa dạng sinh học tăng năng suất, thu nhập

So với trồng quế độc canh, thâm canh trồng quế đa dạng sinh học cho thu nhập cao hơn, đáp ứng được các tiêu chuẩn bền vững và các quy định quốc tế.

Làm giàu từ trồng lan Hồ Điệp công nghệ cao
Làm giàu từ trồng lan Hồ Điệp công nghệ cao

Hải Phòng Thay đổi tư duy, chuyển đổi mô hình sản xuất từ hỗ trợ của Nhà nước để trồng lan Hồ Điệp công nghệ cao giúp ông Đào Quang Trịnh gặt hái nhiều thành công.

Làm giàu từ những vườn cà phê canh tác khoa học
Làm giàu từ những vườn cà phê canh tác khoa học

Nhờ áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhiều chủ vườn cà phê là người BahNar, J’rai ở Gia Lai đã có thu nhập cao, kinh tế gia đình khá giả.

Đào tạo nghề cần khảo sát nhu cầu từng địa phương
Đào tạo nghề cần khảo sát nhu cầu từng địa phương

Đào tạo nghề cho lao động nông thôn càng ngày càng trở nên cấp thiết trước tốc độ phát triển nông nghiệp công nghệ cao, đó là quan niệm của doanh nhân Nguyễn Văn Hiển.

Đào tạo nghề không thể đưa lý thuyết suông cho nông dân
Đào tạo nghề không thể đưa lý thuyết suông cho nông dân

Đào tạo nghề cho nông dân, theo Phó Giáo sư Tiến sĩ Lương Minh Cừ, phải đạt được hai tiêu chí thiết thực và hiệu quả, chứ không thể chạy theo phong trào.

Kinh nghiệm hay từ mô hình ‘xen canh lúa - tôm càng xanh, luân canh tôm sú’
Kinh nghiệm hay từ mô hình ‘xen canh lúa - tôm càng xanh, luân canh tôm sú’

Ông Mai Văn Quốc ngụ ấp Sở Tại, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước (Cà Mau) đã nuôi thành công mô hình ‘xen canh lúa - tôm càng xanh, luân canh tôm sú’.

Nông dân '4 chấm' ở Đắk Nông: Măng tre tứ quý giúp dựng cơ nghiệp
Nông dân '4 chấm' ở Đắk Nông: Măng tre tứ quý giúp dựng cơ nghiệp

Quả đồi dốc cao, cằn cỗi, nên nhiều năm bỏ hoang, chẳng ai muốn làm. Cho đến khi cặp vợ chồng già này đến lập nghiệp và thu tiền tỷ từ măng tre tứ quý.

Nông dân '4 chấm' ở Đắk Nông: Giàu nhờ tư duy sắc bén và cần cù
Nông dân '4 chấm' ở Đắk Nông: Giàu nhờ tư duy sắc bén và cần cù

Với hơn 30ha đất, ông trồng 8ha bơ, 5ha sầu riêng, 10ha bưởi, 7ha hồ tiêu... Bình quân mỗi năm, gia đình ông thu hơn chục tỷ đồng sau khi trừ chi phí.