Hoàng đế Minh Mệnh với nông nghiệp quốc gia

Nguyễn Thanh Thuận - Thứ Tư, 29/01/2025 , 11:00 (GMT+7)

Hoàng đế Minh Mệnh từ khi mới lên ngôi đã rất quan tâm đến nông nghiệp. Để xây dựng một đất nước hùng mạnh, ông chủ trương 'Dĩ nông vi bản' - lấy nông làm gốc và thực thi rất nhiều chính sách khuyến nông.

Chân dung Hoàng đế Minh Mệnh được minh họa trong cuốn sách "Journal of an Embassy to the Courts of Siam and Cochin-China, exhibiting a view of the actual State of these Kingdoms" của John Crawfurd (1783 - 1868), in tại London (Anh), 1828.

Minh Mệnh là một vị Hoàng đế ghi lại nhiều dấu ấn đặc biệt trong số các Hoàng đế nhà Nguyễn. Trong suốt thời gian trị vì của mình, ông đã thi hành nhiều biện pháp cải cách hành chính, quan chế, đặt ra quốc hiệu Đại Nam và đưa đất nước trở thành quốc gia hùng mạnh của khu vực thời bấy giờ. Ông rất quan tâm, chăm lo đời sống nhân dân, chú trọng phát triển kinh tế, áp dụng nhiều chính sách thúc đẩy kinh tế phát triển như khuyến khích khai hoang; đẩy mạnh thủy lợi đào sông thoát lũ; hoàn chỉnh hệ thống đê điều ở Bắc bộ; tiếp tục đo đạc, hoàn thiện sổ địa bạ trong toàn quốc; quy định lại chế độ thu thuế đinh, điền, thuế muối, thuế khai thác mỏ, thuế sản vật...; mở ra nhiều ngành sản xuất mới…

Trong 20 năm trị vì của mình, Hoàng đế Minh Mệnh đã rất quan tâm xây dựng nền kinh tế nông nghiệp vững mạnh và có những thành tựu nhất định: Đào xong kênh Vĩnh Tế ở Nam kỳ, sông thoát lũ Cửu An ở Hưng Yên; ruộng đất canh tác được mở rộng, dân số được tăng thêm. Ông đặt lệ định kỳ báo cáo giá thóc gạo, lương thực ở các nơi; cấm tư thương đầu cơ thóc gạo; giảm thuế, chẩn cấp, xuất kho bán thóc rẻ cho dân các vùng bị thiên tai đói kém; yêu cầu các tỉnh xuất lúa giống trong kho cho dân nghèo vay để làm mùa khiến cho nông nghiệp không bị đình trệ. Do đó, việc mất mùa nếu xảy ra không ảnh hưởng lớn đến đời sống nhân dân.   

Vị Hoàng đế hết lòng lo nông nghiệp quốc gia

Sách "Đại Nam thực lục chính biên" chép: “Quý Mùi năm Minh Mệnh thứ 4 (1823), mùa xuân… Vua tự viết sáu chữ lớn “Phước Thọ Thượng Thọ Hữu Niên” vào bốn bức giấy rồng, đưa bảo bầy tôi rằng: “Năm mới trẫm khai bút viết sáu chữ ấy, hai chữ “Thượng Thọ” là dâng cung Từ Thọ, để cầu phước lớn, hai chữ “Hữu Niên” để cầu cho dân ta năm nay được mùa, hai chữ “Phước Thọ” để ở bên hữu chỗ ngồi để theo ý nghĩa nhà vua thu phước mà ban cho dân”. Nhân hỏi Nguyễn Hữu Thận rằng: “Ngày đầu năm gió nhẹ là gió gì vậy?”. Hữu Thận đáp: “Gió đông bắc là triệu được mùa”. Vua nói: “Năm ngoái mùa kém, trẫm từng thức ngủ không yên; như lời ngươi vừa nói lòng trẫm hơi yên”(1).

Vua Minh Mệnh là người khôi phục, tổ chức long trọng lễ Tịch điền (vua đích thân xuống ruộng cày cấy). Lễ này ở nước đã có từ thời vua Lê Đại Hành năm 987 và được kế tục qua các triều Lý, Trần. Lễ Tịch điền được tổ chức hằng năm nhằm khuyến khích nông dân sản xuất nông nghiệp và người đứng đầu nhà nước là Hoàng đế sẽ thực hiện nghi thức cày ruộng trước tiên để dân chúng noi theo mà giữ việc “lấy nông làm gốc”.

Về việc vua Minh Mệnh cày ruộng Tịch điền, sử chép: “Mậu Tý năm Minh Mệnh thứ 9 (1828), tháng 5…Ngày Đinh Mão, vua cày ruộng tịch điền. Lễ xong ban yến cho bầy tôi ở cung Khánh Ninh.

Mộc bản sách "Đại Nam thực lục chính biên", quyển 50, tờ 22, ghi chép việc vua Minh Mệnh quy định các nghi lễ tổ chức cày ruộng Tịch điền. Ảnh: Trung tâm LTQG IV.

…Giảm thuế điền sang năm cho các địa phương".

Dụ rằng: "Dân lấy việc ăn làm lớn nhất, cho nên lễ cày Tịch điền không thể bỏ được. Đời Đường đời Ngu, cho đến đời Chu đã rất là rõ ràng đầy đủ, đời Hán trở xuống việc làm nhiều cái trái xưa, mà lễ ấy cũng không dám bỏ là bởi việc nông là việc trước nhất của nhà nước. Nếu vua không tự mình đứng làm thì không lấy gì dạy thiên hạ bỏ việc ngọn chăm việc gốc được. Đến như nước ta, từ đời Lê về trước thỉnh thoảng có làm lễ ấy, nhưng còn sơ lược. Đức Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta sau khi võ công đã định, trăm việc sửa sang, mà một niềm trọng nông. Bộ Lễ chưa biết thể tất lòng thánh, mà khảo xét lễ xưa, cho nên chưa rỗi mà cử hành được. Trẫm nay theo chí trước sáng tác lễ nhạc, đều đúng theo thời. Nhân sắc cho bộ Lễ, theo lễ xưa mà châm chước nghị hành. Bèn lấy giờ tốt ngày 29 tháng 5, trẫm đến tế đàn Tiên nông. Lễ xong, lại đến ruộng tịch điền, cầm cày cầy ba luống. Tuy chưa thấy nhọc, mà những công khanh đi theo, cùng các nông phu nhiều người mồ hôi đầy mặt. Lấy đó mà suy thì biết cày cấy khó nhọc hơn mọi việc khác. Nhân nghĩ nông dân cả năm cần cù, chưa được no ấm nên động lòng thương xót. Vậy gia ơn cho giảm 3 phần 10 thóc gạo thuế năm Minh Mệnh thứ 10, để tỏ rõ ý trẫm suy mình ra người. Lại như quan lại địa phương thì người xưa trước hết xét công ở việc nông tang. Nay các quan trấn thành phủ huyện chỉ biết lấy việc sổ sách thuế khóa làm đầu, mà trẫm chưa thấy nhiều người biết dạy dân hiếu đễ và chăm làm ruộng, như thế há chẳng xấu hổ với người xưa sao? Từ nay về sau những người có chức trách thân dân nên thể ý trẫm mà khuyến khích việc nông tang, khiến cho dân đủ ăn đủ mặc vui vẻ ấm no. Để thỏa lòng trẫm trọng nông chuộng gốc, mình tự làm trước, mà nêu phép tắc”(2).

Với lòng thương dân, quan tâm sâu sát đến nhân dân và đặc biệt chú ý đến đời sống sản xuất nông nghiệp nên Hoàng đế Minh Mệnh thường đích thân đi đến đồng ruộng để thăm hỏi các bậc kỳ lão và hỏi han tình hình sản xuất xem có thực là được mùa hay không, nếu thực thì vua rất mừng, bởi dân được ấm no không lo đói rét.

Sách "Đại Nam thực lục chính biên" chép: “Tân Tỵ năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), mùa xuân, tháng 2… “Vua đến hai xã An Vân, Cổ Vưu xem lúa ruộng, triệu kỳ lão đến hỏi, đều nói rằng lúa năm nay tốt hơn những năm gần đây nhiều. Vua cả mừng, lại đi thăm sông Lợi Nông, triệu kỳ lão xã Thanh Thủy hỏi. Đáp rằng hiện nay lúa hơi tốt, nhưng chưa biết thu hoạch sẽ ra sao. Vua nói: “Trẫm vì dân mà lo việc nông, được mùa thì mừng, chứ không phải nhân thể mà đánh thuế nặng thêm, sao không nói thực, há không phải là phụ ý trẫm ư?”. Đến xã Dã Lê lại hỏi kỳ lão. Đáp rằng: “Bọn thần tuổi quá 70, chưa từng thấy năm nào lúa tốt như ngày nay”. Vua khen là thành thực, ban cho 20 quan tiền. Chưa được bao lâu, bỗng có gió bấc. Vua triệu dinh thần Quảng Đức là Ngô Bá Nhân bảo rằng: “Nay lúa mới làm đòng mà gió bấc lạnh lẽo, trẫm rất lấy làm lo. Ngươi phải xét hỏi dân gian xem lúa ruộng có tổn hại không. Trẫm ngày đêm sốt ruột lo lắng về đó, không phải là mộ lấy tiếng khen, chính vì nghĩ đến nhà nông suốt quanh năm cần khổ, nếu không được mùa thì không khỏi đói rét vậy"(3).

Và mỗi khi các tỉnh báo tin về việc sâu bệnh hay mất mùa, vua luôn trăn trở không yên, tìm mọi cách để khắc phục cho dân đỡ khổ.

Nhà vua trên đường đi cử hành lễ Tịch điền qua tác phẩm của Samuel Baron, thế kỷ 17.

Cũng sách thực lục chép: Mùa đông tháng 12 năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), Quảng Nam có sâu keo. Vua biết tin, buồn mà nói rằng: “Năm nay các hạt thu hoạch kém, Quảng Nam hại nhất sao lại còn gặp nạn sâu! Vả nhà nước chứa sẵn để phòng mất mùa. Vào khoảng thu đông này, giá gạo lên cao, đã phát thóc kho bán ra, nếu sang năm được mùa, kho chứa lại đầy mới có thóc phòng bị. Ví lại mất mùa thì làm thế nào ? Muốn không lo có được đâu"(4).

Mùa đông, tháng 9 năm Minh Mệnh thứ 2 (1821): “Ngày Bính Ttý, ngự giá đến hành cung Nghệ An. Tha thuế mùa đông năm nay cho dân".

Dụ rằng: “Hạt các ngươi bỗng gặp nạn bão, tuy lúa ruộng nhà cửa không hại lắm, nhưng trẫm nghĩ rằng trời đã vì dân mà đặt ra vua, thì kẻ làm vua phải coi dân như con, để lòng thương nuôi như cha hiền đối với con trẻ, chưa rét đã lo cho mặc, chưa đói đã lo cho ăn, há lại đợi khóc oe oe đòi bú mới cho ăn ư? Trẫm từ khi lên ngôi, không ngày nào không lo cho dân cư đông đúc được mùa. Hạt ngươi đất xấu dân nghèo, thường bị mất mùa. Nay cảnh ấy đã mục kích, nếu lại theo lệ thường mà chờ đến nơi xem xét thì tình dân mắc nạn đương mong mỏi đấy, gặp phải quan lại tham nhũng tòng trung sinh tệ, thì há lại chẳng thêm nỗi phiền nhiễu cho làng xóm phải cung ứng hay sao! Vậy tha cho thóc thuế về vụ đông"(5).

Lập địa bạ trên toàn quốc

Ở nước ta, dưới thời phong kiến, việc quản lý ruộng đất luôn là một trong những việc được quan tâm đặc biệt. Có thể nói, phương thức quản lý ruộng đất chặt chẽ và hiệu quả nhất thời phong kiến là địa bạ. Địa bạ là sổ ghi chép về các loại hình ruộng đất được nhà nước xác lập trên cơ sở đo đạc ruộng đất của các xã thôn, làm cơ sở cho việc quản lý và thu thuế của nhà nước.

Thời Nguyễn, lần đầu tiên trong lịch sử, đất nước ta có hệ thống cai trị thống nhất từ trung ương đến địa phương, gần như tương ứng với lãnh thổ Việt Nam hiện nay. Khi mới lên ngôi, vua Gia Long đã chú trọng thực hiện đo đạc và lập địa bạ trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên do nhiều lý do khác nhau mà công cuộc này vẫn chưa được hoàn chỉnh. Chỉ đến thời Minh Mệnh, việc đo đạc và xác lập địa bạ trên cả nước mới được hoàn thành.

Sách "Đại Nam thực lục chính biên" chép: Canh dần, năm Minh Mệnh thứ 11 (1830), mùa hạ tháng 6…Vua dụ rằng: "Đất lấy sổ làm căn cứ, là để tỏ tình thực mà trừ gian dối. Trước đây địa bạ các hạt những chỗ tẩy chữa cùng chữ số mục ruộng đất hoang nhàn chưa có dầu kiềm. Phàm sổ sách bờ cõi là quan hệ đến dân chính, mà sơ suất thiếu sót như thế, nếu gặp việc tranh nhau địa giới thì bọn gian ngoan và giảo hoạt khỏi sao không nhân đó mà không làm tệ được"(6).

Riêng ở Nam kỳ, đến năm Minh Mệnh thứ 17 (1836) mới tiến hành lập địa bạ. Đây là lần đầu tiên, từ sau khi chúa Nguyễn hoàn thành việc xác lập chủ quyền trên toàn cõi Nam kỳ (1757), nhà nước mới chính thức đo đạc và lập địa bạ. Tháng 2 năm 1836, vua Minh Mệnh cử phái Binh bộ Thượng thư, Cơ mật viện đại thần Trương Đăng Quế và Lại bộ Thượng thư Nguyễn Kim Bảng cùng phái đoàn vào Nam kỳ đo đạc ruộng đất để lập địa bạ.

Địa bạ thôn Bình Hàn Trung, phân huyện Kiến Đăng, phủ Kiến An, tỉnh Định Tường lập năm Minh Mệnh thứ 17 (1836). Ảnh: Trung tâm LTQG I.

Tháng 4 năm 1836, Kinh lược sứ Nam Kỳ Trương Đăng Quế dâng sớ báo về: “Việc đạc ruộng đã làm thử ở chỗ gần, thấy dân tình cũng có một vài người không vui, nhưng phần đông đều muốn đo đạc. Vì Nam kỳ chứa chất tệ hại đã lâu, cường hào cậy mạnh, bá chiếm, người nghèo không đất cắm dùi. Có kẻ biệt xã chiếm ruộng đất xã khác, mà người xã sở tại lại phải tá ngụ để cày cấy và ở. Có nơi ruộng có một thửa, tô thuế nguyên trưng không quá 3, 4 hộc, nay đã chia làm 6, 7 thửa bán cho người khác, mà các người mua ấy đều phải nộp thóc gấp bội cho chủ nguyên trưng thu riêng, lại còn nhiều nỗi sách nhiễu không kể xiết! Nay khám đạc lại thì mọi người cứ chiếu phần mình cày cấy, nộp thuế, không bị cường hào ức hiếp. Ngoài ra đất bỏ không, có ra sức khai khẩn cày cấy, thì dân thường cũng được chia lợi. Cho nên người thích muốn đạc ruộng thì nhiều. Thế thì việc đạc ruộng cũng là điều người muốn làm, chứ không phải là làm đau khổ dân"(7).

Sau 5 tháng tiến hành, đến tháng 7 năm 1836, toàn bộ ruộng đất ở Nam kỳ đã được đo đạc và hoàn tất sổ bộ. Như vậy, phải mất hơn 30 năm (từ năm 1805 đến năm 1836), đến thời Minh Mệnh, nhà Nguyễn mới cơ bản hoàn tất việc đo đạc, lập địa bạ toàn bộ ruộng đất trên phạm vi toàn quốc.

Đặt ra chính sách điều tiết thị trường lúa gạo

Có thể nói Hoàng đế Minh Mệnh là vị vua sớm nhận thức được ảnh hưởng của thị trường đến đời sống sản xuất của nông dân. Nhà vua nhận thấy có vấn nạn đầu cơ tích trữ làm tăng giá lúa gạo. Những nhà buôn gạo thường lợi dụng những năm thời tiết không thuận lợi, việc vận chuyển lúa gạo bằng thuyền từ Nam ra Bắc gặp khó khăn để trục lợi. Hoặc những lúc thiên tai, mất mùa làm dân các trấn thiếu ăn, bọn đầu cơ lúa gạo nhân đó đẩy giá lên cao để trục lợi. Để giải quyết vấn nạn ấy, bước đầu, vua Minh Mệnh cho phát thóc của nhà nước cho dân. Chẳng hạn như năm 1822, Quảng Ngãi giá gạo hơi cao: “Trong dân gian gạo đắt là vì nhà giàu tích trữ để cầu giá cao nên đến nỗi thế. Nay đem thóc nhà nước chia phát cho dân thì thóc tích trữ ấy không có thể do đâu mà nắm lợi ở chợ được, ngõ hầu giá gạo có thể hơi bình ổn. Tưởng đó cũng là một thuật nhân quyền nghi đấy"(8).

Để điều tiết tạm thời giá lúa gạo, Hoàng đế Minh Mệnh cho đặt kho thường bình: “Mùa đông tháng 11 Minh Mệnh thứ 2 (1821)... Đặt kho thường bình (Phép kho thường bình. Thóc rẻ thì tăng giá mà mua vào, thóc đắt thì giảm giá mà bán ra, các đời đã làm, ai cũng lấy làm tiện lợi. Xin từ Thanh Bình trở vào thì đặt kho ở các dinh trấn đạo, ở Bắc Thành thì năm trấn trong đều đặt kho ở phủ, sáu trấn ngoài thì đặt ở trấn, do quan sở tại giữ, lượng xuất tiền kho tùy tiện mà mua vào bán ra, như thế thì được mùa hay mất mùa không hại, mà dân thường như được mùa)"(9).

Mùa xuân năm 1820, do giá gạo ở Quảng Bình tăng cao nên triều đình đã lấy 10.000 phương gạo trong các kho dự trữ để bán cho dân chúng để giảm giá bán ra với giá “1 phương gạo giá 8 tiền”. Đây là mức giá mà triều đình đã điều chỉnh cho phù hợp giữa giá thị trường với đời sống nhân dân.

Hoàng đế Minh Mệnh nhận thức rõ Nam kỳ với trung tâm là Gia Định là vựa lúa lớn nhất cả nước, là nơi cung cấp gạo chủ yếu cho các tỉnh từ Bình Định trở ra Bắc. Giá gạo ở Gia Định luôn tác động mạnh đến giá gạo trong nước. Muốn điều chỉnh giá gạo trong nước thì phải điều chỉnh giá gạo ở Gia Định. Vì vậy, vua Minh Mệnh đặc biệt chú ý kiểm soát chặt chẽ giá gạo ở đây để điều tiết thị trường gạo trong nước.

Qua những minh chứng nêu trên, chúng ta thấy trong giai đoạn trị vì của mình, Hoàng đế Minh Mệnh đã chế định và thực thi nhiều chính sách lớn nhằm nuôi dưỡng sức dân, phát triển kinh tế nông nghiệp. Các chính sách đó được ông triển khai một rất linh hoạt và kịp thời nhằm đáp ứng tình hình thực tiễn trong nước. Đặc biệt trong việc khai khẩn ruộng hoang, thiết lập địa bạ trên toàn quốc đã mang lại nhiều lợi ích thiết thực. Ông đã khéo léo đưa ra những biện pháp điều tiết giá cả thị trường lúa gạo để người dân không bị thiệt hại, đất nước ổn định. Cùng với cuộc cải cách hành chính lớn, thống nhất bộ máy quản lý hành chính trong cả nước đã cho thấy công lao và những thành tựu to lớn của Hoàng đế Minh Mệnh mà các thế hệ sau cần ghi nhớ, tri ân.

Tài liệu tham khảo:

- Trung tâm lưu trữ quốc gia I (2021), Địa danh làng xã Việt Nam qua tài liệu địa bạ triều Nguyễn - tập IV Nam Kỳ, NXB Hà Nội.

- Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục tập 2, NXB Giáo Dục.

- Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), Minh mệnh chính yếu, NXB Thuận Hóa.

- Nguyễn Đình Đầu (1994), Nam Kỳ Lục Tỉnh tổng kết nghiên cứu địa bạ, NXB Thành Phố Hồ Chí Minh,

- Ngô Đức Lập (2022), Chính sách “nuôi dưỡng sức dân” của vua Minh Mạng - Tạp chí KHXH Việt Nam, số 2.

- Trần Viết Nghĩa (2013), Chính sách quản lí và sử dụng gạo của triều Nguyễn trong thời kỳ 1802 - 1858 - Tạp chí khoa học ĐHQGHN, tập 29 (số 1).

(1)  Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục tập 2, NXB Giáo Dục, tr.254.

(2) Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục tập 2, NXB Giáo Dục, tr.742.

(3) Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục tập 2, NXB Giáo Dục, tr.119

(4) Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục tập 2, NXB Giáo Dục, tr.252.

(5) Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục tập 2, NXB Giáo Dục, tr.159.

(6) Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục tập 3, NXB Giáo Dục, tr.74

(7) Nguyễn Đình Đầu (1994), Nam Kỳ Lục Tỉnh tổng kết nghiên cứu địa bạ, NXB Thành Phố Hồ Chí Minh, Tr. 126.

(8) Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục tập 2, NXB Giáo Dục, tr.232.

(9) Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục tập 2, NXB Giáo Dục, tr.168.

Nguyễn Thanh Thuận
Tin khác
Người nuôi biển Vân Đồn làm lớn, xây chuỗi liên kết rong - hàu 5 sao
Người nuôi biển Vân Đồn làm lớn, xây chuỗi liên kết rong - hàu 5 sao

QUẢNG NINH Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam tin tưởng Chi hội Nuôi biển Vân Đồn sẽ đem lại thành công cho dự án chuỗi liên kết rong - hàu 5 sao.

Hướng dẫn nhặt lá mai đúng cách để hoa nở vàng đúng dịp Tết 2025
Hướng dẫn nhặt lá mai đúng cách để hoa nở vàng đúng dịp Tết 2025

Hoa mai là biểu tượng quen thuộc của Tết cổ truyền Việt Nam. Nhặt lá đúng cách là kỹ thuật quan trọng giúp mai nở đúng dịp.

Nghề làm bún 400 tuổi bên sông Bồ trở thành di sản văn hóa quốc gia
Nghề làm bún 400 tuổi bên sông Bồ trở thành di sản văn hóa quốc gia

THỪA THIÊN - HUẾ Nghề làm bún Vân Cù (thị xã Hương Trà) và lễ hội điện Huệ Nam (thành phố Huế) được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia từ tháng 12/2024.

Triển khai toàn diện quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM
Triển khai toàn diện quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM

Ông Lê Văn Thiệt - Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ Thực vật: Ngành Nông nghiệp, các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp, sẽ tiếp tục phối hợp tốt trong triển khai quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM.

Trên 47.000 cán bộ khuyến nông cộng đồng có thể tham gia chương trình IPHM
Trên 47.000 cán bộ khuyến nông cộng đồng có thể tham gia chương trình IPHM

Trình bày và đề xuất của đại diện Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang và lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia về lực lượng khuyến nông tham gia triển khai chương trình IPHM.

Cách thành phố Cần Thơ triển khai mô hình IPHM gắn với nông nghiệp sinh thái
Cách thành phố Cần Thơ triển khai mô hình IPHM gắn với nông nghiệp sinh thái

Đại diện Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật TP Cần Thơ giới thiệu cách triển khai mô hình IPHM gắn với nông nghiệp sinh thái và cảnh quan.

Cây trồng có giá trị kinh tế cao cần phân bón 'chuyên dụng'
Cây trồng có giá trị kinh tế cao cần phân bón 'chuyên dụng'

Theo GS.TS Trần Văn Hâu, nguyên Giảng viên cao cấp Trường Đại học Cần Thơ, những cây trồng có yêu cầu kỹ thuật, giá trị kinh tế cao cần có phân bón 'chuyên dụng'.

Lợi ích từ áp dụng quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM
Lợi ích từ áp dụng quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM

Chia sẻ của ông Lê Văn Thiệt - Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ Thực vật về những lợi ích trong áp dụng quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM, đảm bảo an toàn sản xuất và xuất khẩu.

Phân bón mới nâng cao hiệu suất sử dụng BiO
Phân bón mới nâng cao hiệu suất sử dụng BiO

Ông Lê Văn Hải, Tổng Giám đốc BiOWISH Việt Nam trình bày về dòng phân bón mới nâng cao hiệu suất sử dụng hữu hiệu (BIO EFF).

Mỗi năm Syngenta Việt Nam đào tạo cho 1 triệu nông dân sử dụng thuốc BVTV
Mỗi năm Syngenta Việt Nam đào tạo cho 1 triệu nông dân sử dụng thuốc BVTV

Mỗi năm Syngenta Việt Nam tiếp cận, tập huấn kỹ thuật sử dụng thuốc BVTV an toàn hiệu quả cho hơn 1 triệu nông dân. Có 250.000 nông dân được tập huấn theo chuyên đề 4 đúng, 5 nguyên tắc vàng, sử dụng thuốc và thu gom bao gói sau sử dụng có trách nhiệm.

Ứng dụng cây trồng cải tiến trong thực hành IPHM
Ứng dụng cây trồng cải tiến trong thực hành IPHM

Bà Đào Thu Vinh, Điều phối viên tổ chức Croplife Việt Nam cho biết các giống cây trồng cải tiến, kháng sâu bệnh hại giúp cây trồng khỏe mạnh hơn, có khả năng chống chịu lại các yếu tố bất lợi của môi trường và dịch hại. Đây luôn là một cấu phần quan trọng trong chương trình IPHM và IPM.

Sự kiện

Truyện ngắn của nhà văn Phạm Lưu Vũ: Đạo dụ tân kinh

Truyện ngắn của nhà văn Phạm Lưu Vũ: Đạo dụ tân kinh

Tiếng Việt - Văn Việt - Người Việt
Lễ nghi Tết chốn cung đình

Lễ nghi Tết chốn cung đình

Tiếng Việt - Văn Việt - Người Việt