Tằm Việt sau hàng thập kỷ ngủ đông đã thức giấc

Kem đánh răng, xà phòng, chỉ phẫu thuật, xương nhân tạo từ tơ tằm

Dương Đình Tường - Thứ Tư, 22/05/2024 , 06:00 (GMT+7)

Tôi sinh ra, lớn lên ở một trại tằm nhưng vẫn hết sức ngỡ ngàng khi lần đầu tiên được đánh răng bằng thứ kem chế từ tơ tằm, mềm, mượt như lụa ấy.

Hệ thống máy tách chiết các dưỡng chất quý từ kén tằm. Ảnh: Dương Đình Tường.

Tách chiết silk protein từ vỏ kén

Ngỡ ngàng hơn khi biết nhiều sản phẩm khác như xà phòng, kem dưỡng da được sản xuất ngay tại Trung tâm Nghiên cứu Dâu tằm tơ Trung ương, còn ở Hàn Quốc người ta đã chế ra chỉ khâu phẫu thuật, xương nhân tạo và vô số vật tư y tế khác từ tơ tằm, bán giá rất đắt.

TS Lê Hồng Vân, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Dâu tằm tơ Trung ương dẫn tôi thăm xưởng sản xuất, khu trưng bày sản phẩm của đơn vị phối hợp với Trung tâm KOPIA (Chương trình nông nghiệp quốc tế Hàn Quốc) Việt Nam để nói về sản xuất dâu tằm theo hướng đa giá trị, ngoài tơ lụa làm quần áo, nhộng làm thực phẩm, còn làm mỹ phẩm, dược phẩm.

“Phát triển công nghệ tách chiết các chất quý từ tơ tằm, cạnh tranh với các loại mỹ phẩm khác, từ hóa học đến tự nhiên nên mọi việc không hề đơn giản. Những kỹ thuật này đòi hỏi cao, đầu tư lớn, có lẽ không dành cho nông dân mà hướng tới doanh nghiệp. Bắt đầu từ 2019, Trung tâm Nghiên cứu Dâu tằm tơ Trung ương đã đề xuất với KOPIA hỗ trợ nghiên cứu phát triển giống tằm mới, đồng thời phát triển giá trị gia tăng cho ngành dâu tằm." TS Vân chia sẻ.

Dự án có hai nội dung, chọn tạo giống tằm lưỡng hệ kén trắng mà mục tiêu là cạnh tranh được với giống của Trung Quốc đang chiếm khoảng 90% thị trường Việt Nam và mục tiêu nữa là phát triển các sản phẩm giá trị gia tăng, tách chiết silk protein từ vỏ kén. Cả hai nhiệm vụ trên đã hoàn thành và kết thúc vào năm 2022.

Giống tằm mới VH2020 đã được công nhận tiến bộ kỹ thuật vào tháng 3/2023 và đang cố gắng mở rộng ra sản xuất. Còn mục tiêu thứ hai, Trung tâm có cử cán bộ đi học tập ở trong nước và cả Hàn Quốc. Đến nay, Trung tâm đã tách chiết được silk protein bằng phương pháp thủy phân trong áp suất cao, không sử dụng hóa chất, tạo nguyên liệu an toàn để sản xuất kem đánh răng, xà phòng, kem dưỡng da, sau đó sẽ là nước tẩy trang thân thiện với làn da con người.

Đổ khuôn xà phòng có thành phần làm từ kén tằm. Ảnh: Dương Đình Tường. 

Toàn bộ máy móc sản xuất do Hàn Quốc tài trợ, tuy nhiên để thương mại hóa các loại mỹ phẩm làm ra từ tơ tằm là cả một vấn đề bởi thị trường rất cạnh tranh. Hướng tới của chúng tôi là phân phối ở trong hệ thống của mình và sẽ hình thành điểm du lịch dâu tằm ngay tại đây để khách đến trải nghiệm và mua hàng.

"Hiện, chúng tôi bán những set quà tặng giá 350.000 đồng, gồm 2 hộp kem đánh răng và 4 bánh xà phòng. 2023 là năm đầu tiên bán chừng 600-800 set như vậy, chưa được nhiều. Bên cạnh đó hàng tuần cũng có doanh nghiệp du lịch dẫn các học sinh đến trải nghiệm các công việc của nghề dâu tằm ở đây để thế hệ trẻ biết về nghề truyền thống”, TS Vân cho biết.

Là người gắn bó cả đời với trồng dâu nuôi tằm nên ông Vân hiểu rõ những thăng trầm của cái nghề từng có một thời phát triển rực rỡ, nổi lên như một ngôi sao sáng nhất của nền nông nghiệp Việt Nam.

Cao điểm nhất về sản xuất dâu tằm là năm 1991, khi đó Việt Nam có 38.000ha dâu nhưng do năng suất kém, chỉ 500kg kén/ha nên sản lượng chỉ khoảng xấp xỉ 20.000 tấn kén.

Diện tích trồng dâu sau đó cứ giảm dần, có nhiều nguyên nhân nhưng sâu xa là do ngành dâu tằm bị lạc hậu về mọi mặt. Trong đó, tổ chức sản xuất không có hệ thống nuôi tằm con riêng mà dân toàn tự nuôi tằm từ trứng, hơn thế do nuôi chung trong nhà ở nên dịch bệnh rất nhiều.

Công nghệ nuôi như cổ xưa, mỗi nhà có một vài cái đũi, mấy cái nong, tận dụng thời gian và công sức để kiếm thêm được đồng nào thì kiếm. Về giống năng suất thấp, phòng bệnh kém… đã làm cho hiệu quả kinh tế của nghề dâu tằm tơ không cao.

Nguyên nhân trực tiếp là do Liên Xô cùng các nước Đông Âu, thị trường chính trước đây của tơ Việt Nam bị tan rã. Việc xuất khẩu theo kiểu hiệp định đổi hàng lấy hàng, không đúng nghĩa thị trường, tuy nhiên đó là nguồn sống chính của ngành dâu tằm tơ lúc đó cũng bị đóng theo.

Thị trường giảm dần, ngành dâu tằm sa sút đến mức năm 2005 chỉ còn khoảng 7.700ha. Con tằm Việt thực sự đã bị “ngủ đông” một thời gian dài đằng đẵng, tưởng chừng như không ngóc đầu dậy nổi.

Xà phòng có thành phần làm từ kén tằm. Ảnh: Dương Đình Tường.

Công của cố Phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn

Đến năm 2000, những nhược điểm đó của ngành dâu tằm tơ được nhìn thấy rõ và có những chuyển biến, thay đổi. Bộ NN-PTNT cùng với các cơ quan nghiên cứu bên dưới bắt đầu xây dựng những cơ sở nuôi tằm con tập trung ở tỉnh Yên Bái, Lâm Đồng. Sau vài năm, việc làm này đã chứng minh được hiệu quả bởi giai đoạn tằm con yêu cầu kỹ thuật rất cao, đòi hỏi phải có cơ sở nuôi riêng cũng như cách chăm sóc, phòng bệnh đúng khoa học.

Ở 2 tỉnh này đã hình thành những HTX, nhóm hộ nuôi tằm con tập trung sau đó bán cho nông dân nuôi từ tuổi 4 trở đi, giúp cho thời gian chăm sóc ngắn đi một nửa, 1 tháng thay vì chỉ nuôi được 1 lứa thì nuôi được 2, 3 lứa, hệ số quay vòng nhanh.

Chất lượng tằm con tốt nên năng suất của tằm lớn cao, tổn thất ít. Trên cơ sở đó, mở rộng đến nay khoảng trên 80% nông dân ở trên khắp Việt Nam đã mua tằm con nuôi về vì nó giảm được 1/2 công sức lại chắc ăn hơn. Đó là sự thay đổi lớn về tổ chức sản xuất.

Hái dâu về cho tằm ăn. Ảnh: Dương Đình Tường.

Về công nghệ, trước nuôi tằm trên nong giờ nuôi trên nền nhà. Đó không phải là điều mới mẻ gì bởi trên thế giới cũng đã có nơi làm từ lâu nhưng khí hậu nồm ẩm đã làm chùn bước những người nuôi tằm ở Việt Nam. Mãi đến đầu thế kỷ 21, dưới áp lực của công nghiệp hóa, để tiết giảm nhân công, nuôi tằm trên nền nhà thực chất là đơn giản hóa các thao tác mới được cán bộ trong ngành nhận thức một cách đầy đủ. 

Năm 2004, chính cố Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn là người đích thân chỉ đạo việc chuyển đổi này. Ông vốn học ở Trung Quốc nhiều năm, thấy công nghệ nông nghiệp của nước người phát triển như vũ bão mà sốt ruột cho nền nông nghiệp ì ạch của nước mình liền thành lập Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nông nghiệp.

Cùng với ông Trần Trung Nhật, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang, ông Tạn đã triển khai 3 mô hình thí điểm nuôi tằm trên nền nhà ở xã Việt Thành huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái; xã Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam và xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Thậm chí, ông còn mời các chuyên gia Trung Quốc sang cùng giám sát những lứa nuôi đầu.

Nuôi tằm trên giá ở huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Ảnh: Dương Đình Tường.

Bà Nguyễn Thị Len, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Dâu tằm tơ Trung ương ngày nay chính là một trong những người trực tiếp tham gia chỉ đạo mô hình hồi đó, vẫn còn nhớ những cảm xúc sôi nổi của một thời tuổi trẻ.

Nếu như nuôi tằm trên nong kiểu truyền thống ngày nào cũng phải thay phân do giới hạn của nong khi tằm lớn lên, chật phải san ra, rất tốn công thì nuôi tằm trên nền nhà không phải san vì tự chúng mở rộng. Lúc đầu, người nuôi rải tằm theo từng dãy nhỏ, dâu rắc đến đâu thì tằm mở rộng ra đến đấy. Nuôi tằm kiểu này không phải thay phân hàng ngày, từ tuổi 4 đến lúc chín chỉ phải dọn phân 2 lần, giảm đến 1/2 công.

Thông qua việc nuôi tằm con tập trung rồi chia cho các hộ nuôi tằm lớn và áp dụng công nghệ nuôi trên nền nhà nên nghề tằm đã tiết giảm nhân công, chỉ còn 25% so với trước và người nuôi tằm không phải vất vả “ăn cơm đứng” như xưa nữa. Hơn thế, nuôi trên nền nhà do không phải thay phân, di chuyển tằm hàng ngày, tránh được tình trạng xây xát da, tằm chỉ việc ăn và lớn nên ít chết và khỏe. Bởi vậy, chúng cho kén rất dày cùi, tơ dài, không đứt, 1 con kén cho tới trên dưới 1.000m tơ, kén loại 1 tăng thêm được 7-8% so với nuôi trên nong.

Trước năm 1985, ở Việt Nam có Cục Dâu tằm, bên dưới có các Chi cục Dâu tằm của những tỉnh có diện tích lớn, bên dưới nữa có các trại giống, nhà máy ươm tơ. Đến năm 1985, người ta giải tán Cục Dâu tằm, tách phần quản lý nhà nước về Bộ NN-PTNT, phần sản xuất thành lập Liên hiệp các xí nghiệp dâu tằm tơ rồi chuyển vào Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng nơi có khí hậu mát mẻ phù hợp với nuôi tằm kén trắng chất lượng cao. Sau này, Liên hiệp các xí nghiệp dâu tằm tơ đổi tên thành Tổng Công ty Dâu tằm tơ Việt Nam.

Dương Đình Tường
Tin khác
Nghề làm bún 400 tuổi bên sông Bồ trở thành di sản văn hóa quốc gia
Nghề làm bún 400 tuổi bên sông Bồ trở thành di sản văn hóa quốc gia

THỪA THIÊN - HUẾ Nghề làm bún Vân Cù (thị xã Hương Trà) và lễ hội điện Huệ Nam (thành phố Huế) được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia từ tháng 12/2024.

Triển khai toàn diện quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM
Triển khai toàn diện quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM

Ông Lê Văn Thiệt - Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ Thực vật: Ngành Nông nghiệp, các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp, sẽ tiếp tục phối hợp tốt trong triển khai quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM.

Trên 47.000 cán bộ khuyến nông cộng đồng có thể tham gia chương trình IPHM
Trên 47.000 cán bộ khuyến nông cộng đồng có thể tham gia chương trình IPHM

Trình bày và đề xuất của đại diện Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang và lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia về lực lượng khuyến nông tham gia triển khai chương trình IPHM.

Cách thành phố Cần Thơ triển khai mô hình IPHM gắn với nông nghiệp sinh thái
Cách thành phố Cần Thơ triển khai mô hình IPHM gắn với nông nghiệp sinh thái

Đại diện Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật TP Cần Thơ giới thiệu cách triển khai mô hình IPHM gắn với nông nghiệp sinh thái và cảnh quan.

Cây trồng có giá trị kinh tế cao cần phân bón 'chuyên dụng'
Cây trồng có giá trị kinh tế cao cần phân bón 'chuyên dụng'

Theo GS.TS Trần Văn Hâu, nguyên Giảng viên cao cấp Trường Đại học Cần Thơ, những cây trồng có yêu cầu kỹ thuật, giá trị kinh tế cao cần có phân bón 'chuyên dụng'.

Lợi ích từ áp dụng quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM
Lợi ích từ áp dụng quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM

Chia sẻ của ông Lê Văn Thiệt - Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ Thực vật về những lợi ích trong áp dụng quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM, đảm bảo an toàn sản xuất và xuất khẩu.

Phân bón mới nâng cao hiệu suất sử dụng BiO
Phân bón mới nâng cao hiệu suất sử dụng BiO

Ông Lê Văn Hải, Tổng Giám đốc BiOWISH Việt Nam trình bày về dòng phân bón mới nâng cao hiệu suất sử dụng hữu hiệu (BIO EFF).

Mỗi năm Syngenta Việt Nam đào tạo cho 1 triệu nông dân sử dụng thuốc BVTV
Mỗi năm Syngenta Việt Nam đào tạo cho 1 triệu nông dân sử dụng thuốc BVTV

Mỗi năm Syngenta Việt Nam tiếp cận, tập huấn kỹ thuật sử dụng thuốc BVTV an toàn hiệu quả cho hơn 1 triệu nông dân. Có 250.000 nông dân được tập huấn theo chuyên đề 4 đúng, 5 nguyên tắc vàng, sử dụng thuốc và thu gom bao gói sau sử dụng có trách nhiệm.

Ứng dụng cây trồng cải tiến trong thực hành IPHM
Ứng dụng cây trồng cải tiến trong thực hành IPHM

Bà Đào Thu Vinh, Điều phối viên tổ chức Croplife Việt Nam cho biết các giống cây trồng cải tiến, kháng sâu bệnh hại giúp cây trồng khỏe mạnh hơn, có khả năng chống chịu lại các yếu tố bất lợi của môi trường và dịch hại. Đây luôn là một cấu phần quan trọng trong chương trình IPHM và IPM.

Các sinh vật gây hại mới nổi và biện pháp phòng ngừa
Các sinh vật gây hại mới nổi và biện pháp phòng ngừa

GS.TS Nguyễn Văn Tuất, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật BVTV Việt Nam, chia sẻ, nhiều sinh vật gây hại bùng phát mạnh trong điều kiện biến đổi khí hậu, cần phòng ngừa bằng tổng hợp nhiều giải pháp.

Tổng quan đề án IPHM và kết quả triển khai ở các tỉnh
Tổng quan đề án IPHM và kết quả triển khai ở các tỉnh

Ông Đỗ Văn Vấn, Giám đốc Trung tâm Bảo vệ thực vật phía Nam, Cục Bảo vệ thực vật, giới thiệu tổng quan đề án quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM và kết quả triển khai ở các tỉnh, thành trên cả nước.

Phát triển kit chẩn đoán nhanh giám định sinh vật gây hại
Phát triển kit chẩn đoán nhanh giám định sinh vật gây hại

Ngoài một số bệnh hại sẵn có, cây trồng còn chịu tác động của nhiều sinh vật gây hại mới nổi, sinh vật ngoại lai khiến công tác phòng chống gặp khó khăn.