Tằm Việt sau hàng thập kỷ ngủ đông đã thức giấc: Thoái lui khỏi đồng bằng

Dương Đình Tường - Thứ Năm, 23/05/2024 , 10:00 (GMT+7)

Tổng kết mô hình nuôi tằm trên nền nhà thành công, trong 3 xã chỉ có Việt Thành (huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái) là duy trì và phát triển mạnh như ngày nay.

Nuôi tằm sắn trên nền nhà ở xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Ảnh: Dương Đình Tường.

3 xã thí điểm chỉ tồn tại 1

2 xã là Ngọc Lũ (huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam) và Nam Thắng (huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định) thì không còn bóng tằm.

TS Lê Hồng Vân, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Dâu tằm tơ Trung ương phân tích, nguyên nhân do nuôi tằm trên nền yêu cầu phải có nhà nuôi riêng, phải có diện tích mặt bằng rộng, những điều kiện rất khó ở dưới vùng đồng bằng đất chật người đông.

Lúc thí điểm mô hình trong những ngôi nhà truyền thống Bắc bộ có ban thờ đặt giữa, hai gian hai bên, người dân phải dọn hết đồ đạc như giường tủ, bàn ghế đi để dành chỗ cho nuôi tằm, còn người dồn lại vào ở một gian hoặc dưới nhà ngang.

Kết thúc hội nghị đánh giá tốt đấy nhưng sau đó người dân lại kê đồ vào ở, lại trở về với cách nuôi trên nong như cũ. Công nghệ nuôi tằm trên nền nhà hiện đã phổ biến ở tỉnh Yên Bái, còn trên phạm vi cả nước ước chiếm khoảng 80%.

Sau này, nuôi tằm trên nền nhà ngày càng giúp cho mọi việc đơn giản dần, không còn phải bắt những con tằm chín cho lên né nữa mà khi tằm chín đều, dồn vào luống rồi chỉ việc đặt né vào giữa để chúng tự bò lên, nhàn tênh.

Trước có né rơm, né tre, sau này phát triển né gỗ vuông, từng con một, mỗi con một tổ cứ thế bò lên, khi thu hoạch thay cho nhặt đã có bàn dập, đỡ công gỡ.

Cũng bởi lý do trước kia nuôi tằm trong nhà ở nên không tiến hành sát trùng được, giờ nuôi trong nhà riêng nên sát trùng đầy đủ giống như lợn nuôi trong chuồng kiểu công nghiệp. Ngoài khử trùng, hàng ngày người nuôi còn rắc vôi trắng xóa lên thân tằm để vừa sát trùng vừa làm khô khu vực nuôi. Ngoài ra, hiện tại đã có nhiều loại thuốc phòng trừ bệnh hiệu quả cho tằm.

Về giống dâu, trước năm 1970 là giống bản địa, năng suất chỉ 12-15 tấn lá/ha, từ năm 1970 đến 1993 ta chọn tạo theo hướng tam bội thể, đạt năng suất 25 tấn/ha, từ năm 1993 phát triển theo hướng dâu lai, đạt năng suất 30 - 35 tấn/ha. Hiện, các giống dâu mới đang chiếm khoảng trên 90%.

Về giống tằm, trước đây là tằm kén vàng, vỏ rất mỏng, sau đó kén vàng lai rồi đến lưỡng hệ kén trắng. Bắt đầu từ năm 1993 Tổng Công ty Dâu tằm tơ gặp suy thoái, hệ thống nhân giống tằm chao đảo dần.

Sau khi Tổng công ty Dâu tằm tơ vỡ nợ bị sụp đổ, hệ thống nhân giống tằm cũng sụp đổ theo. Mấy chục cái trại tằm trong cả nước từ đồng bằng Bắc bộ đến những vị trí đắc địa, mát mẻ ở miền núi như Mộc Châu (Sơn La), miền Trung như Bà Nà (Đà Nẵng), Tây Nguyên như Bảo Lộc đều bị tan rã, bị bán mất.

Trong thời điểm nhập nhằng đó, các tư thương nhập trứng từ Trung Quốc về, bắt đầu phổ biến dần đến quãng năm 2000 là chiếm hết thị phần tằm kén trắng. Giống nội chỉ còn co cụm lại ở tằm kén vàng và tằm sắn, chiếm quãng 15 - 20%.

TS Lê Hồng Vân (trái) đang kiểm tra chất lượng kén. Ảnh: Dương Đình Tường.

Đến năm 2012, diện tích trồng dâu ở Việt Nam ngừng giảm, bắt đầu tăng lên, hiện đạt 13.938ha, gấp đôi thời kỳ thấp nhất nhưng không bằng 1/2 thời đỉnh cao, tuy nhiên sản lượng kén giờ hơn 16.824 tấn, không kém mấy thời kỳ cao nhất.

Sản lượng tơ năm 2021 của ta đạt 1.067 tấn, đứng thứ 4 thế giới, xuất khẩu được 72 triệu USD, sau Trung Quốc, Ấn Độ và Uzbekistan, còn cao hơn cả thời kỳ huy hoàng nhất ở thập niên 90.

Trên thế giới, trong khi các quốc gia khác vẫn đang trên đà giảm diện tích dâu tằm, chỉ có một số nước quay trở lại phát triển, trong đó Việt Nam tăng thứ bậc nhanh nhất, còn Thái Lan, trước đây có rất nhiều diện tích dâu vẫn chưa khắc phục được đà giảm.

Về công nghệ ươm tơ, trước các nhà máy ươm tơ kiểu thủ công và cơ khí, giờ hầu hết đã đổi sang ươm tơ tự động, năng suất lao động cao hơn nhiều mà chất lượng tơ đã được cải thiện rất rõ rệt. Trước đây chỉ đạt cấp E, cấp G nay đã đạt đại trà cấp 2A.

Những làng nuôi tằm làm thực phẩm

Theo TS Lê Hồng Vân, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Dâu tằm tơ Trung ương, xưa nuôi tằm chủ yếu mục đích lấy tơ, giờ là đa mục đích. Con tằm rất kị hóa chất, lá dâu chúng ăn cũng thế, không phải dùng bất cứ thuốc BVTV nào. Đầu vào sạch, đầu ra chúng là một thực phẩm nghiễm nhiên an toàn, hợp với xu thế thực phẩm của tương lai gồm những loại côn trùng giàu dưỡng chất.

Trước bảo quản kén bằng sấy rồi lưu kho, giờ cho vào container lạnh để ươm dần bởi thói quen của người Việt là ăn nhộng. Bảo quản lạnh giúp cho nhộng bán được, là một trong những yếu tố giúp cho người ươm tơ sống được trong thời gian vừa qua nhờ tăng nguồn thu.

Còn các quốc gia khác thì không có thói quen ăn nhộng nên sấy khô kén, ươm tơ rồi đem nhộng đi chế biến thành thức ăn gia súc. 

Hái dâu về nuôi tằm. Ảnh: Dương Đình Tường.

Xuất phát từ giai đoạn biến động thị trường, không tiêu thụ được tơ nên người nuôi phải bán tằm chín hay cắt kén bán nhộng, ở Việt Nam đã dần hình thành lên thị trường nuôi tằm bán nhộng ở những vùng nuôi tằm truyền thống.

Như xã Hồng Phong, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình có khoảng 250ha dâu chuyên dùng để nuôi tằm nguyên (tằm vàng) lấy nhộng. Trong nhà họ lúc nào cũng có mấy lứa tằm, lứa tuổi 1, tuổi 2, lứa sắp chín, lứa đang đẻ trứng. Với giá bán trung bình 100.000 đồng/kg kén, dù năng suất chỉ 5 - 6kg kén/vòng trứng nhưng nuôi tằm kiểu này vẫn cho hiệu quả kinh tế khá. Ngoài tỉnh Thái Bình ra khu vực tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh mỗi nơi đều có vài chục ha trồng dâu nuôi tằm lấy nhộng như vậy.

Nếu như dâu tằm là cây trồng riêng biệt nên có thể thống kê được diện tích, từ đó suy ra sản lượng tằm, tơ thì sắn là cây trồng lấy củ, chỉ một số nơi tận dụng lá để nuôi một loại tằm đặc biệt là tằm sắn nên không thể thống kê được sản lượng. Chỉ có thể ước lượng thông qua số lượng trứng mới ra sản lượng của tằm sắn.

Nuôi tằm sắn là kiểu kinh tế cộng sinh khi người nuôi tằm không phải trồng dâu cũng chẳng phải trồng sắn mà tận dụng những vùng sắn sẵn có, hàng ngày khai thác dưới 1/3 số lượng lá để không ảnh hưởng đến củ bên dưới đất.

Đó là điển hình của kinh tế tự cung tự cấp nhưng dần dần cũng chuyển theo hướng hàng hóa dần, khi tằm chín mang ra chợ bán như các loại hàng hóa khác. Ưu điểm của tằm sắn là sức đề kháng khỏe, tạo thành thực phẩm là tằm chín được người dân trong khu vực ưa chuộng.

Nuôi tằm sắn làm thực phẩm ở Đồng Lương. Ảnh: Dương Đình Tường.

Có hẳn một làng sản xuất tằm sắn giống và tằm sắn thịt ở xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Ông Vi Tiến Cường, Chủ tịch UBND xã Đồng Lương cho tôi biết, trước đây, chủ yếu trên địa bàn người dân trồng bạch đàn, chu kỳ 5 năm, khai thác bán gần 100 triệu/ha, tương đương chưa được 20 triệu/ha/năm.

Từ hồi người dân chuyển đổi sang trồng sắn lấy lá nuôi tằm, thu hoạch 200 triệu/ha/năm, gấp tới 10 lần. Sau năm đầu tiên hái lá, người ta chặt thân sắn đi, để lại gốc cho lên chồi để lấy lá tiếp, hết năm thứ hai thì đào củ bán để làm thức ăn chăn nuôi.

Ước tính, cả xã hiện có khoảng 300 lao động tham gia vào nuôi tằm sắn thịt và tằm sắn giống, cung cấp hầu hết lượng giống cho cả miền Bắc, đem lại doanh thu mỗi năm tới 60 tỷ đồng. Các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc như Yên Bái, Sơn La, Thanh Hóa... đều có thể nuôi tằm sắn tương tự Phú Thọ.

Để tìm hiểu về cách con tằm “chuyển vùng” lên miền núi cao thế nào, ông Vân hẹn tôi một chuyến đi tham quan huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái.

Mỗi năm ở Đồng Lương có một vụ tằm giống kéo dài 7 - 8 tháng, 7 cơ sở sản xuất được 3,5 tấn trứng, với giá trung bình 8 triệu/kg là xấp xỉ 30 tỉ đồng. Vụ sản xuất tằm làm thực phẩm ở xã cũng khoảng 7 - 8 tháng, mỗi ngày xuất 1,5 tấn, với giá trung bình 80.000 đồng/kg là được khoảng 30 tỉ đồng nữa.

Dương Đình Tường
Tin khác
Nghề làm bún 400 tuổi bên sông Bồ trở thành di sản văn hóa quốc gia
Nghề làm bún 400 tuổi bên sông Bồ trở thành di sản văn hóa quốc gia

THỪA THIÊN - HUẾ Nghề làm bún Vân Cù (thị xã Hương Trà) và lễ hội điện Huệ Nam (thành phố Huế) được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia từ tháng 12/2024.

Triển khai toàn diện quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM
Triển khai toàn diện quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM

Ông Lê Văn Thiệt - Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ Thực vật: Ngành Nông nghiệp, các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp, sẽ tiếp tục phối hợp tốt trong triển khai quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM.

Trên 47.000 cán bộ khuyến nông cộng đồng có thể tham gia chương trình IPHM
Trên 47.000 cán bộ khuyến nông cộng đồng có thể tham gia chương trình IPHM

Trình bày và đề xuất của đại diện Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang và lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia về lực lượng khuyến nông tham gia triển khai chương trình IPHM.

Cách thành phố Cần Thơ triển khai mô hình IPHM gắn với nông nghiệp sinh thái
Cách thành phố Cần Thơ triển khai mô hình IPHM gắn với nông nghiệp sinh thái

Đại diện Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật TP Cần Thơ giới thiệu cách triển khai mô hình IPHM gắn với nông nghiệp sinh thái và cảnh quan.

Cây trồng có giá trị kinh tế cao cần phân bón 'chuyên dụng'
Cây trồng có giá trị kinh tế cao cần phân bón 'chuyên dụng'

Theo GS.TS Trần Văn Hâu, nguyên Giảng viên cao cấp Trường Đại học Cần Thơ, những cây trồng có yêu cầu kỹ thuật, giá trị kinh tế cao cần có phân bón 'chuyên dụng'.

Lợi ích từ áp dụng quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM
Lợi ích từ áp dụng quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM

Chia sẻ của ông Lê Văn Thiệt - Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ Thực vật về những lợi ích trong áp dụng quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM, đảm bảo an toàn sản xuất và xuất khẩu.

Phân bón mới nâng cao hiệu suất sử dụng BiO
Phân bón mới nâng cao hiệu suất sử dụng BiO

Ông Lê Văn Hải, Tổng Giám đốc BiOWISH Việt Nam trình bày về dòng phân bón mới nâng cao hiệu suất sử dụng hữu hiệu (BIO EFF).

Mỗi năm Syngenta Việt Nam đào tạo cho 1 triệu nông dân sử dụng thuốc BVTV
Mỗi năm Syngenta Việt Nam đào tạo cho 1 triệu nông dân sử dụng thuốc BVTV

Mỗi năm Syngenta Việt Nam tiếp cận, tập huấn kỹ thuật sử dụng thuốc BVTV an toàn hiệu quả cho hơn 1 triệu nông dân. Có 250.000 nông dân được tập huấn theo chuyên đề 4 đúng, 5 nguyên tắc vàng, sử dụng thuốc và thu gom bao gói sau sử dụng có trách nhiệm.

Ứng dụng cây trồng cải tiến trong thực hành IPHM
Ứng dụng cây trồng cải tiến trong thực hành IPHM

Bà Đào Thu Vinh, Điều phối viên tổ chức Croplife Việt Nam cho biết các giống cây trồng cải tiến, kháng sâu bệnh hại giúp cây trồng khỏe mạnh hơn, có khả năng chống chịu lại các yếu tố bất lợi của môi trường và dịch hại. Đây luôn là một cấu phần quan trọng trong chương trình IPHM và IPM.

Các sinh vật gây hại mới nổi và biện pháp phòng ngừa
Các sinh vật gây hại mới nổi và biện pháp phòng ngừa

GS.TS Nguyễn Văn Tuất, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật BVTV Việt Nam, chia sẻ, nhiều sinh vật gây hại bùng phát mạnh trong điều kiện biến đổi khí hậu, cần phòng ngừa bằng tổng hợp nhiều giải pháp.

Tổng quan đề án IPHM và kết quả triển khai ở các tỉnh
Tổng quan đề án IPHM và kết quả triển khai ở các tỉnh

Ông Đỗ Văn Vấn, Giám đốc Trung tâm Bảo vệ thực vật phía Nam, Cục Bảo vệ thực vật, giới thiệu tổng quan đề án quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM và kết quả triển khai ở các tỉnh, thành trên cả nước.

Phát triển kit chẩn đoán nhanh giám định sinh vật gây hại
Phát triển kit chẩn đoán nhanh giám định sinh vật gây hại

Ngoài một số bệnh hại sẵn có, cây trồng còn chịu tác động của nhiều sinh vật gây hại mới nổi, sinh vật ngoại lai khiến công tác phòng chống gặp khó khăn.