'Tao khang' trong 'nghĩa tao khang' là gì?

Hoàng Tuấn Công - Thứ Sáu, 20/05/2022 , 10:12 (GMT+7)

Về nghĩa bóng, người ta dùng 'tao khang' hay 'tào khang' để ví người chồng chung thủy với vợ, không quên người vợ từng đồng cam cộng khổ với mình lúc khốn khó.

“Tin nhà ngày một vắng tin,

Mặn tình cát lũy, lạt tình tao khang

(Truyện Kiều)

“Ai xui rã chút duyên kim cải,

Ai khiến rời chút ngãi tào khang...”

(Ca dao)

 

“Tao khang” hay “tào khang” là gì?

Sách “Tập tục đời người” (Phan Cẩm Thượng - NXB Hội Nhà văn, 2017) giải thích: “Trong tiếng Hán, hạt gạo là đạo (tao), vỏ trấu bọc ngoài gạo gọi là khang. Sự bao bọc này rất khăng khít, nên muốn có gạo ăn phải xay lúa giã gạo. Chữ “tạo khang”, “đạo khang” được chỉ sự chung thủy của vợ chồng, nên có câu “Vợ chồng là nghĩa tao khang”. Ở đây ta thấy có hiện tượng người Việt dùng nguyên tiếng Trung Quốc cổ lẫn tiếng Hán Việt”.

Tác giả “Tập tục đời người” đã giảng rõ ràng như vậy. Tuy nhiên, ở đây có sự nhầm lẫn “tao” 糟 (bã rượu), thành “đạo” 稻 (hạt gạo); rồi lại nhầm lẫn hạt thóc với “hạt gạo” và “vỏ trấu”; cuối cùng là suy diễn hai chữ “đạo khang”, “tao khang” theo ý chủ quan, thiếu căn cứ.

Nhầm lẫn thóc với “hạt gạo” và “vỏ trấu”

Trong Hán ngữ, “đạo CỐC” 稻穀 mới có nghĩa là hạt thóc, hạt lúa - thứ mà vỏ chưa bị bóc/tách khỏi hạt (tức vỏ đang còn ôm khít lấy hạt). Còn cái gọi là “đạo KHANG” 稻糠 mà Phan Cẩm Thượng nói, nó là vỏ trấu (đã) bong ra khỏi hạt sau khi đem xay xát, chứ không có nghĩa là “hạt gạo” và “vỏ trấu”.

“Hán ngữ đại từ điển” giảng hai chữ “đạo khang” 稻糠 mà Phan Cẩm Thượng dẫn như sau: “Đạo cốc kinh qua gia công thoát xuất đích ngoại xác” [稻糠 dào kāng. 稻穀經過加工脫出的外殼; 礱糠], có nghĩa là: “Đạo khang là vỏ ngoài của hạt lúa (tức “đạo cốc” – Hoàng Tuấn Công), tách ra qua quá trình gia công xay xát”.

“ĐẠO khang” 稻糠 đồng nghĩa với “LUNG khang” 礱糠 (lung = xay, cối xay): “vỏ trấu bong ra sau khi hạt thóc đem xay” [đạo cốc kinh qua lung ma thoát hạ đích xác - 稻穀經過礱磨脫下的殼 – “Hán ngữ đại từ điển”].

Nghĩa bóng ngược với nghĩa đen

Những dẫn chứng trên đây cho thấy, phải là ở dạng “đạo CỐC” (hạt lúa/hạt thóc chưa xay xát) thì vỏ và hạt mới còn “khăng khít”. Còn đã gọi là “đạo KHANG” như Phan Cẩm Thượng viết, thì có nghĩa thóc đã xay xong; vỏ (trấu) đã đi đằng vỏ (trấu), hạt (gạo) đã đi đằng hạt (gạo); đâu còn “sự bao bọc này rất khăng khít, nên muốn có gạo ăn phải xay lúa giã gạo”?

Như vậy, với nghĩa đen này thì nghĩa bóng của “đạo khang” chỉ có thể là sự chia lìa, vợ đi đằng vợ, chồng đi đằng chồng (giống như hạt đi đằng hạt, trấu đi đằng trấu), chứ không thể “chỉ sự chung thủy của vợ chồng”.

“Tao khang”/ “tào khang” trong từ điển tiếng Việt

Trong tiếng Việt chỉ có “tao khang” hay “tào khang”, chứ không có “Đạo khang” như Phan Cẩm Thượng dẫn. Bởi vì “đạo” 稻 = gạo (bính âm: dào); trong khi “tao” 糟 = bã rượu (bính âm: zào).

Trong tiếng Việt, “tao khang” hay “tào khang” là những từ khá thông dụng và được hầu hết các sách từ điển chúng tôi có trong tay ghi nhận với lời giảng thống nhất. Sau đây xin dẫn ba sách (trong số hơn 10 cuốn) đại diện cho ba thời kỳ xuất bản (trích lần lượt):

“Việt Nam tự điển” (Hội Khai trí Tiến đức - 1931): “tao-khang” • Bã và tấm. Nghĩa bóng: Chỉ người vợ lấy lúc còn bần hàn; Mặn tình cát-lũy, nhạt tình tao-khang (Kiều)”.

“Việt Nam tự điển” (Lê Văn Đức – 1974): “tao khang • dt. C/g. Tào-khang, bã rượu và tấm mẳn. • (R) người vợ nghèo (khi trước, vợ chồng chỉ ăn ròng bã hèm và tấm mẳn): Ai xui rã chút duyên kim cải, Ai khiến rời chút ngãi tao-khang… (CD)”.

“Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê - Vietlex - 2016): “tao khang • 糟糠 d. 1 [cũ] người vợ lấy từ lúc còn nghèo khó. […] Đn: tào khang. 2 [cũ] tình nghĩa vợ chồng gắn bó từ thuở còn nghèo khó. Dứt nghĩa tao khang. Đn: tào khang”.

Hai chữ “tao khang” 糟糠 còn được dùng để chỉ người vợ cả; còn “cát lũy” chỉ người vợ lẽ. Thế nên trong Truyện Kiều có câu: “Tin nhà ngày một vắng tin, Mặn tình cát lũy, lạt tình tao khang”.

“Tao khang” 糟糠 trong từ điển Hán ngữ

Trong tiếng Hán, “tao” 糟 là bã rượu/bã hèm, “khang” 糠 chỉ lớp vỏ trấu, hay màng cứng bao ngoài hạt gạo, mì mạch, ngũ cốc… khi chế biến thì trở thành cám gạo.

Bã rượu và cám gạo là phụ phẩm của rượu và quá trình xay giã, sơ chế ngũ cốc. Người ta thường dùng bã rượu và cám gạo để chăn nuôi lợn gà. Tuy nhiên, đây cũng là thức ăn của người nghèo đói. Trong cảnh cơ hàn của mỗi gia đình, người phụ nữ bao giờ cũng nổi lên như một hình ảnh tiêu biểu cho đức hy sinh, chịu khó chịu khổ, vì chồng vì con. Bởi vậy, “tao khang” hay “tào khang” (tùy cách phiên âm trong tiếng Việt) là cách gọi tắt của thành ngữ “tao khang chi thê”, chỉ người vợ từng chung cảnh nghèo khổ, từng cùng ăn cám bã thuở hàn vi.

“Hán ngữ đại từ điển” (La Trúc Phong chủ biên - Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã - 1993) giảng nghĩa rõ ràng hai chữ “tao khang” 糟糠 (nghĩa 2 và 3) như sau:

- “Loại đồ ăn thô kém như bã rượu, cám, mà kẻ nghèo hèn thường dùng lúc đói khổ” (tửu chỉ, cốc bì đẳng thô liệt thực vật, bần giả dĩ sung cơ - 酒滓, 穀皮等粗劣食物, 貧者以之充饑);

- “Hậu Hán thư - Tống Hoằng truyện”: “bần tiện chi tri bất khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đường”. Ý nói người vợ từng cùng chung miếng cám bã lúc đói khổ thì không thể bỏ. Về sau dùng hai chữ “tao khang” để gọi người vợ từng chung cảnh cơ hàn” [nguyên văn: 後漢書-宋弘傳: “貧賤之知不可忘, 糟糠之妻不下堂”. 意謂貧困時與之共食糟糠的妻子不可遺棄. 後因以 “糟糠” 稱曾共患難的妻子].

“Tống Hoằng truyện” mà “Hán ngữ đại từ điển” trích dẫn có đoạn chép: Tống Hoằng, tự Trọng Tử, người quận Kinh Đào, huyện Trường An, thời Quang Vũ Đế làm quan tới chức Đại tư không. Ông học rộng, hiểu nhiều, có tiếng nhân từ, thanh liêm.

Quang Vũ Đế có người chị là Công chúa Hồ Dương góa chồng. Quan Vũ Đế thường cùng với chị đàm luận về các quần thần trong triều để dò ý tứ. Một bận Công chúa thổ lộ: “Uy đức của Tống Hoằng thì quần thần trong triều không ai sánh được”. Quan Vũ Đế đáp: “Vậy để ta nghĩ cách xem”.

Quan Vũ Đế cho gọi Tống Hoằng đến triều kiến, đoạn bố trí để Công chúa ngồi khuất phía sau bức bình phong.

Quan Vũ Đế hỏi Tống Hoằng: “Ngạn ngữ có câu thăng quan đổi bạn, giàu sang đổi vợ, đó có phải là điều thường tình của con người ta chăng?”. Tống Hoằng bèn đáp: “Thần văn, bần tiện chi giao bất khả vong, tào khang chi thê bất hạ đường”, nghĩa là: “Thần nghe nói bạn bè từ thuở hàn vi không thể quên, người vợ từ hồi đói khổ không thể bỏ”.

Như vậy, “tao khang” hay “tào khang” nghĩa đen là bã rượu và cám gạo, chứ không phải là “hạt gạo” và “vỏ trấu bọc ngoài”. Mặt khác, về nghĩa bóng, người ta dùng “tao khang”/“tào khang” để ví người chồng chung thủy với vợ, không quên người vợ từng đồng cam cộng khổ với mình lúc khốn khó (ví dụ: Một lời đã hứa tào khang, Trăm năm ghi tạc nghĩa chàng, chàng ơi! - Ca dao); hoặc giả lên án người chồng phụ bạc người vợ từng gắn bó với mình thuở hàn vi (ví dụ: dứt nghĩa tao khang; lạt nghĩa tào khang), chứ không “chỉ sự chung thủy của vợ chồng” nói chung, như tác giả “Tập tục đời người” phân tích.

Hoàng Tuấn Công
Đôi điều suy nghĩ của một Phật tử về câu chuyện xung quanh ông Minh Tuệ
Đôi điều suy nghĩ của một Phật tử về câu chuyện xung quanh ông Minh Tuệ6

Là một Phật tử, theo dõi hành trình và xem gần hết các video trên mạng về ông Minh Tuệ, chúng tôi nhận thấy văn bản của Giáo hội Phật giáo Việt Nam có thể gây hiểu lầm.

Tác giả trẻ phủ sóng một cuộc thi Thơ Hay
Tác giả trẻ phủ sóng một cuộc thi Thơ Hay

Tác giả trẻ thuộc thế hệ 8X, 9X đã chiếm ưu thế tuyệt đối tại cuộc thi Thơ Hay vừa tổ chức trao giải thưởng vào sáng 16/5 tại TP.HCM.

Nhân hiện tượng Minh Tuệ: Đi tu để được gì?
Nhân hiện tượng Minh Tuệ: Đi tu để được gì?10

Hiện tượng ông Minh Tuệ một lần nữa nhắc cho ta biết rằng cũng như trong căn nhà đóng kín, chúng ta sẽ không thấy được gì, nhưng chỉ cần một tia sáng lọt vào, lập tức thấy bụi bặm nhảy múa đảo điên.

Thổn thức cùng sông Nghèn
Thổn thức cùng sông Nghèn

Quy luật muôn đời là các dòng sông đều chảy, nhưng khi thực hiện dự án 'ngọt hóa', thau chua rửa mặn thì sông Nghèn thành dòng sông duy nhất ở Việt Nam... không chảy.

Từ trường hợp Minh Tuệ: Y pháp bất y nhân
Từ trường hợp Minh Tuệ: Y pháp bất y nhân1

Câu ấy có nghĩa là [người tu phải] căn cứ vào giáo pháp (chân lý) chứ không được căn cứ vào cá nhân.

Tác phẩm hay trong sự tiếp nhận hiện nay như thế nào?
Tác phẩm hay trong sự tiếp nhận hiện nay như thế nào?

‘Tác phẩm hay trong sự tiếp nhận hiện nay’ là cuộc tọa đàm văn chương giữa các tác giả thuộc Hội Nhà văn TP.HCM và Hội Văn học nghệ thuật Phú Yên.

Bên dòng Kiến Giang huyền thoại
Bên dòng Kiến Giang huyền thoại6

Sự hiểu biết cùng cảm xúc rất đặc biệt của cô bé Hà Nội 12 tuổi về đất và người Lệ Thủy, Quảng Bình.

'Dân Ông Tạ' cất giữ một phần ký ức đô thị phương Nam
'Dân Ông Tạ' cất giữ một phần ký ức đô thị phương Nam

'Dân Ông Tạ' là cộng đồng người gốc Bắc di cư vào nam, được tác giả Cù Mai Công phản ánh trong bộ sách 'Sài Gòn một thuở - Dân Ông Tạ đó'.

Viết ngược từ theo sở thích làm méo mó ngôn ngữ Việt
Viết ngược từ theo sở thích làm méo mó ngôn ngữ Việt

Gần đây, trường hợp viết đảo ngược từ xuất hiện tràn lan và ngày một phát triển. Có cơ hội, có dịp là đảo ngược. Đảo lấy được. Nhà văn, nhà báo cũng đua nhau viết ngược từ.

Chùa Một Cột trên thành phố bị lãng quên Bandipur, Nepal
Chùa Một Cột trên thành phố bị lãng quên Bandipur, Nepal

Đi hành hương lần này, đoàn chúng tôi có 8 người. Đi một chuyến đi 'lịch sử đời người', vì sẽ đến những nơi chưa từng đến, những nơi mà để đến được, thì vô cùng khó khăn mới đến được, nhưng đã đến được thì quá xứng đáng để đi. Đến dãy Núi Tuyết Hy Mã Lạp Sơn, và thành phố cổ Bandipur...

Giá trị tiếng Việt kết nối cội nguồn người Việt khắp nơi
Giá trị tiếng Việt kết nối cội nguồn người Việt khắp nơi

Giá trị tiếng Việt trong tâm hồn người Việt, một lần nữa được nhắc nhớ qua chương trình đặc biệt kỷ niệm Giỗ tổ Hùng Vương trên Nông nghiệp Radio tối nay (18/4).

Giỗ Tổ nhớ 'Cảm tưởng của ta về Hội đền Hùng' của cụ Dương Bá Trạc
Giỗ Tổ nhớ 'Cảm tưởng của ta về Hội đền Hùng' của cụ Dương Bá Trạc

Nhà báo, nhà văn Dương Bá Trạc (1884-1944), hiệu Tuyết Huy, là anh trai của nhà giáo Dương Quảng Hàm. Cụ cùng các chiến sĩ đã sáng lập phong trào Đông Kinh nghĩa thục.