Chiều 15/8, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, các vị đại biểu Quốc hội sẽ chất vấn đối với Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan về 3 nhóm vấn đề.
Thứ nhất là giải pháp tháo gỡ khó khăn cho xuất khẩu nông sản (thị trường đầu ra bị thu hẹp, nhiều doanh nghiệp không có đơn hàng, một số mặt hàng nông sản chủ lực bị rớt giá, thu nhập, đời sống của người nông dân bị ảnh hưởng...).
Thứ hai, hoạt động khai thác, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản; giải pháp tháo gỡ “thẻ vàng” của Ủy ban châu Âu (EC) đối với thủy sản.
Nhóm vấn đề thứ ba là việc chuyển đổi mục đích sử dụng, thu hồi diện tích đất trồng lúa, bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu gạo.
Theo Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, mặc dù lĩnh vực NN-PTNT đã có những nội dung được Quốc hội chất vấn tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, ngành nông nghiệp phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức mới.
Bên cạnh đó, ngành cũng cần tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả, đồng bộ Nghị quyết số 19 của Trung ương Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cũng như Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021-2025; Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025.
"Vì vậy, việc tiếp tục chất vấn đối với lĩnh vực này là hết sức cần thiết với kỳ vọng sẽ có nhiều giải pháp hữu hiệu để giải quyết những khó khăn và tạo sự phát triển bứt phá cho ngành nông nghiệp thời gian tới", ông Vương Đình Huệ cho biết.
Nông nghiệp tiếp tục là trụ đỡ của nền kinh tế, nhất là trong những điều kiện khó khăn
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đánh giá các đại biểu có chuẩn bị kỹ, câu hỏi chất lượng, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, cử tri. Các vị Bộ trưởng, trưởng ngành, với tinh thần trách nhiệm cao, nắm chắc thực trạng ngành, lĩnh vực phụ trách, đã giải trình làm rõ và đề xuất được nhiều giải pháp với từng vấn đề được chất vấn.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội đánh giá cao phần trả lời chất vấn; tán thành, ghi nhận các giải pháp, cam kết tại phiên chất vấn. Phiên chất vấn có 107 lượt đại biểu đăng ký tham gia, 54 đại biểu thực hiện quyền chất vấn, 8 lượt đại biểu tranh luận làm rõ vấn đề cần quan tâm. Với những đại biểu chưa được trả lời, hoặc đại biểu thấy nội dung chưa rõ, hoặc đại biểu chưa được chất vấn, đề nghị đại biểu gửi câu hỏi bằng văn bản tới thành viên Chính phủ để được giải đáp.
Với riêng ngành Nông nghiệp – Phát triển Nông thôn, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đánh giá đây là ngành có nhiều đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước, tiếp tục là trụ đỡ của nền kinh tế, nhất là trong những điều kiện khó khăn.
“Các cân đối cung cầu, an ninh lương thực quốc gia được đảm bảo vững chắc. Nguồn cung, sản lượng lúa gạo, thịt, thủy sản đều tăng so với cùng kỳ năm trước, đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu. 7 tháng đầu năm, tuy tổng kim ngạch xuất nhập khẩu có sụt giảm, nhưng cũng đã tận dụng thời cơ để đẩy mạnh xuất khẩu nhóm mặt hàng có lợi thế. Trong đó có 4 mặt hàng là rau quả, gạo, cà phê, hạt điều có kim ngạch xuất khẩu vượt trội”, ông Huệ nhận xét.
Theo người đứng đầu Quốc hội đánh giá, Chính phủ cùng Bộ NN-PTNT, các ban ngành liên quan, các địa phương đã ban hành nhiều văn bản theo thẩm quyền để hướng dẫn thi hành Luật Thủy sản; quy định của Liên minh châu Âu về IUU. Các văn bản này tạo cơ sở để phát triển nghề cá bền vững, phù hợp thông lệ quốc tế liên quan. Đặc biệt là công tác đồng quản lý nguồn lợi thủy sản được thực hiện tốt.
Tuy nhiên, Chủ tịch Quốc hội chỉ ra một số khó khăn, thách thức mà ngành nông nghiệp phải đối mặt, đó là nhu cầu thị trường trong nước phục hồi chậm, thị trường xuất khẩu nhiều biến động - lượng đơn hàng giảm; giá vật tư nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi tăng; kết nối, điều hòa cung cầu còn bất cập. Việc phát triển bền vững nông nghiệp nói chung và thủy sản nói riêng còn nhiều thách thức.
Từ thực tiễn này, Chủ tịch Quốc hội đề nghị Chính phủ, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT và các Bộ trưởng, Trưởng ngành có liên quan, cần “tiếp thu tối đa” ý kiến của các đại biểu. Từ đó, chỉ đạo quyết liệt thực hiện các giải pháp đề ra nhằm khắc phục tồn tại, hạn chế.
Một số vấn đề chung được Quốc hội nhắc đến, là khẩn trương hoàn thiện chính sách pháp luật về phát triển thương hiệu nông sản chủ lực; cập nhật đánh giá thông tin thị trường một cách toàn diện, cẩn trọng, giúp người dân và doanh nghiệp vượt khó. Củng cố thị trường hiện có, khai mở thị trường mới cho nông sản Việt Nam. Đổi mới truyền thông quảng bá chất lượng đặc thù vượt trội của nông sản Việt tại thị trường trong và ngoài nước. Tổ chức sản xuất nông nghiệp bền vững theo mục tiêu định hướng tại Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững. Cụ thể là Thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông lâm sản đạt chuẩn, phục vụ trong nước và xuất khẩu, giai đoạn 2022-2025.
Thúc đẩy phát triển nông lâm sản đến 2030, đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chất lượng cao, gắn với tăng trưởng xanh Đồng bằng sông Cửu Long, chuỗi logistics nâng cao sức cạnh tranh nông sản Việt đến năm 2030, tầm nhìn 2050. Theo dõi sát diễn biến thị trường và giá lương thực trên thế giới, có kế hoạch cụ thể đáp ứng an ninh lương thực và xuất khẩu. Ngăn ngừa rủi ro khi “bắt sóng” xuất khẩu mà bỏ ngỏ thị trường trong nước.
“Cần lấy yếu tố chất lượng gạo, thương hiệu, tiến độ giao hàng là giải pháp sâu rễ, bền gốc. Phối hợp với các bộ ngành trong chế biến, bảo quản lúa gạo, đảm bảo ổn định thị trường trong nước; hài hòa lợi ích người trồng lúa, doanh nghiệp chế biến và nhà xuất khẩu gạo”, Chủ tịch Quốc hội nói.
Về vấn đề thủy sản, tháo gỡ “thẻ vàng” của EC, ông Huệ yêu cầu ngành nông nghiệp điều tra, đánh giá tổng thể nguồn lợi thủy sản, môi trường sống, theo định kỳ 5 năm. Điều chỉnh cơ cấu tàu thuyền với một số ngành nghề ở vùng biển phù hợp, khả năng cho phép của nguồn lợi thủy sản. Rà soát thành lập các khu bảo tồn biển cấp quốc gia, cấp tỉnh, nhằm đạt mục tiêu tối thiểu 6% diện tích biển được bảo tồn.Hỗ trợ ngư dân trong thời gian tạm ngừng khai thác thủy sản, xây dựng chính sách chuyển đổi nghề, sinh kế cho ngư dân. Phát triển đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Đẩy mạnh chuyển đổi nếu nghề khai thác gây nguy hại cho môi trường.
Ngoài ra, Quốc hội đề nghị kiện toàn lực lượng Kiểm ngư, tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm trong khai thác, tiến tới chấm dứt khai thác bất hợp pháp. “Tiếp tục đàm phán, ký kết phân định vùng biển chồng lấn, vùng chưa phân định giữa Việt Nam với các nước. Xác định ranh giới được phép khai thác hải sản trên các vùng biển, hạn chế tình trạng tàu cá bị lực lượng chức năng nước ngoài xua đuổi, bắt giữ, xử lý trên vùng biển tiếp giáp với các nước trong khu vực”, ông Huệ nói.
Các tàu cá ra vào bến phải được lực lượng biên phòng kiểm tra 100%. Các hành vi móc nối, đưa tàu cá của ngư dân Việt đi khai thác bất hợp pháp ở vùng biển nước ngoài cần bị xử lý hình sự. Thực hiện tốt công tác bảo hộ công dân với tàu cá, ngư dân đã và đang bị nước ngoài bắt giữ ở vùng nước lịch sử, khu vực biển chồng lấn. Kiểm soát chặt thủy sản nhập khẩu bằng container; xử lý vi phạm IUU. Giải trình, vận động EC sớm gỡ “thẻ vàng”.
Đôn đốc lập, phê duyệt các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp tỉnh, huyện. Kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đổi đất trồng lúa, nhất là đất trồng lúa nước sang đất phi nông nghiệp, đặc biệt là đất khu công nghiệp. Xử lý nghiêm, triệt để các vi phạm trật tự xây dựng trên đất nông nghiệp. Lập hồ sơ thủ tục xin chuyển đổi đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng phòng hộ theo đúng quy định pháp luật. Trong chuyển đổi, phải đảm bảo hài hòa lợi ích các bên, đảm bảo quyền lợi cho người bị thu hồi đất.
Tổng kết phiên chất vấn chiều 15/8, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho rằng các tranh luận đã diễn ra sôi nổi; các câu hỏi đã bám sát nội dung được Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề ra; các giải trình đầy đủ, có trách nhiệm, thẳng thắn, đồng thời ghi nhận một số giải pháp hay, đã có triển khai trong thực tế.
Tuy nhiên, do thời gian có hạn nên có hơn 20 đại biểu đăng ký tham gia chất vấn chưa kịp gửi câu hỏi. Phó Chủ tịch Hải đề nghị các đại biểu gửi câu hỏi trực tiếp tới các trưởng ngành, để các vị tư lệnh ngành trả lời trực tiếp.
Về phiên chất vấn của Bộ NN-PTNT, ông Hải ghi nhận Bộ NN-PTNT đã có nhiều biện pháp trong việc cân đối cung cầu nông sản, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, duy trì đà xuất khẩu, cũng như có các giải pháp tốt để chống khai thác IUU, bảo đảm nguồn lợi và khai thác thủy sản bền vững.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện 3 nội dung tranh luận chiều 15/8, Phó Chủ tịch Quốc hội đánh giá, một số hoạt động còn hạn chế, chưa sát thực tế hoặc chưa phù hợp với đòi hỏi của thị trường. Ông đề nghị Bộ NN-PTNT cùng các Bộ, ban, ngành liên quan có thêm các tìm tòi, để xây dựng giải pháp một cách căn cơ, bền vững.
Các sản phẩm nghiên cứu, tiến bộ khoa học cần phải có tính thị trường hóa
Tranh luận với Bộ trưởng Lê Minh Hoan về phần trả lời liên quan đến mối liên kết vùng, liên kết các nhà khoa học trong các sản phẩm khoa học công nghệ, đại biểu Tô Văn Tám, đoàn ĐBQH tỉnh Kon Tum cho biết, Bộ trưởng nêu giá trị gia tăng trong sản phẩm rất quan trọng. Để tạo ra giá trị gia tăng việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật có yếu tố quyết định, thời gian qua việc ứng dụng này đã đạt được nhiều tiến bộ.
Tuy nhiên, đại biểu Tô Văn Tám cho rằng, các nhà khoa học nắm trong tay thành tựu khoa học công nghệ, còn người dân và doanh nghiệp có nhu cầu tiếp nhận, nhưng nhà khoa học khó chuyển giao thành tựu đó, ảnh hưởng đến quá trình tạo ra giá trị gia tăng sản phẩm nông nghiệp và ảnh hưởng đến sức cạnh tranh.
Đại biểu đề nghị Bộ trưởng cho biết quan điểm về thực trạng này, mức độ, nguyên nhân và giải pháp tháo gỡ như thế nào?
Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, vấn đề đại biểu nêu về hàm lượng khoa học công nghệ, làm sao đi từ nghiên cứu đến được với người nông dân có thể xem là một điểm nghẽn, còn một khoảng trống rất lớn từ các sản phẩm nghiên cứu khoa học với người nông dân.
Thời gian qua, đã có một số sản phẩm, đề tài nghiên cứu, tiến bộ khoa học kỹ thuật, thông qua Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và khuyến nông địa phương chuyển giao đến được với người nông dân thông qua các mô hình nhưng mới chỉ dừng lại ở mức mô hình. Các sản phẩm nghiên cứu, tiến bộ khoa học cần phải có tính thị trường hóa để các doanh nghiệp, các hợp tác xã, bà con nông dân có thể ứng dụng được.
Giải pháp của Bộ NN-PTNT là trong thời gian tới, tất cả các đề tài nghiên cứu khoa học, trừ những đề tài mang tính chất cơ bản thì phải đánh giá, đưa lên một cổng chung để quảng bá cho các hợp tác xã và bà con nông dân tiếp cận và ứng dụng.
Bộ trưởng nhấn mạnh, các sản phẩm khoa học công nghệ chỉ phát huy tác dụng khi được lan tỏa và có nhiều người tiếp cận, thụ hưởng. Do đó, ông cho rằng cần phải mở rộng phạm vi ứng dụng các sản phẩm này.
Chuyển mục đích sử dụng đất lúa: Cần quy định rõ ràng hơn về mức độ khai thác tầng đất mặt
Đại biểu Lê Đào An Xuân, đoàn ĐBQH tỉnh Phú Yên hỏi: Nghị định 94/2019, hướng dẫn thi hành Luật Trồng trọt, có quy định về phương án bóc tách tầng đất mặt là một thành phần hồ sơ khi chuyển mục đích sử dụng đất lúa.
Tuy nhiên, hướng dẫn chưa quy định cụ thể cơ quan chủ trì, dẫn đến đánh đồng trách nhiệm giữa hai ngành Nông nghiệp và Tài nguyên Môi trường. Có nơi đánh đồng quy mô chuyển đổi diện tích giữa vài m2 đến vài nghìn ha, không có cơ sở pháp lý để tính toán dự toán khi cần thiết. Điều này gây khó khăn cho địa phương, xin Bộ NN-PTNT, Bộ TN-MT cho biết trách nhiệm và hướng giải quyết.
Về câu hỏi của đại biểu tỉnh Phú Yên, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, để tìm giải pháp cho hơn 3 triệu ha đất trồng lúa, Bộ NN-PTNT thấy rằng cần khai thác đất mặt ở mức cho phép để khi cần thì quay lại trồng lúa. Bộ trưởng đồng ý với nhận định của đại biểu về mức độ khai thác đất mặt, cần có quy định rõ ràng hơn. Địa phương vừa cần quản lý, vừa cần được tạo điều kiện phát triển kinh tế. Do đó, đây là vấn đề mà các ban ngành cần có giải pháp cụ thể.
Tích cực phối hợp, tìm hướng giải quyết tình hình sạt lở
Đại biểu Trịnh Minh Bình, đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Long cho biết, thời gian qua, ĐBSCL diễn ra sụt lún, sạt lở bờ sông. Nguyên nhân ban đầu không phải do khai thác cát sỏi, không phải do dòng chảy. Đại biểu đề nghị Bộ NN-PTNT cho biết lý do sạt lở. Câu hỏi này đại biểu cũng xin gửi tới Bộ TN-MT.
Về vấn đề sụt lún, sạt lở, Bộ trưởng Lê Minh Hoan đánh giá đây là vấn đề lớn. Đánh giá ban đầu, ông cho rằng do địa chất ĐBSCL chịu tác động do dòng chảy, gây mềm đất; bất cứ việc chất thêm tải trọng nào cũng sẽ gây ra lún sụt. Ngoài ra, còn có thể kể tới các đập từ thượng nguồn Mekong, gây cản trở phù sa, cản trở thủy sản. Nhiều nhà nghiên cứu, chuyên gia thủy lợi đã phát biểu trong Hội nghị do Chính phủ tổ chức mới đây, liên quan tới vấn đề đại biểu tại Vĩnh Long nêu. Nguyên nhân nữa là do nhiều hộ dân khoan nước phục vụ sinh hoạt, nuôi trồng thủy sản.
Trước mắt, đó là những nguyên nhân được giới khoa học nhìn nhận. Bộ NN-PTNT đang phối hợp cùng các ngành, các nhà khoa học tích cực tìm hướng giải quyết.
Tích hợp đa giá trị cho ruộng bậc thang
Đại biểu Sùng A Lềnh, Đoàn ĐBQH tỉnh Lào Cai cho biết, Bộ NN-PTNT đã tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định số 35 và Nghị định số 62 về quản lý, sử dụng đất trồng lúa. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện vẫn còn một số quy định hỗ trợ còn thấp, chưa có chính sách đặc thù, đặc biệt là chính sách đặc thù quản lý, bảo vệ ruộng bậc thang.
Trả lời vấn đề này, Bộ trưởng Lê Minh Hoan đánh giá cao giá trị ruộng bậc thang và nêu rõ ruộng bậc thang tuy sản lượng không cao nhưng giá trị rất cao nếu biết tích hợp giá trị của văn hóa, lịch sử và giá trị cảnh quan.
Đây cũng là một vấn đề được Bộ NN-PTNT quan tâm và có nhiều chuyến khảo sát, nhằm tích hợp đa giá trị, giúp bà con đồng bào dân tộc có thêm thu nhập từ hoạt động du lịch, du lịch văn hóa, du lịch trải nghiệm từ ruộng bậc thang.
Tránh vòng lẩn quẩn 'càng cạn kiệt thì càng khai thác, càng khai thác thì càng cạn kiệt'
Đại biểu Huỳnh Thị Phúc, Đoàn ĐBQH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thừa nhận, với thực trạng hiện nay, vì lợi ích kinh tế, vì mưu sinh, việc đánh bắt thủy sản hiện nay đã làm cho nguồn lợi thủy sản cạn kiệt, môi trường biển bị ảnh hưởng.
Đại biểu chất vấn, Bộ NN-PTNT đã tính tới việc quy định đánh bắt thủy sản theo mùa, theo đặc tính sinh sản, sinh trưởng của thủy sản hay chưa?
Theo Bộ trưởng, làm tốt công tác quản lý, khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, phát triển được các khu bảo tồn biển sẽ không chỉ mang lại giá trị kinh tế, giảm thiểu vấn đề khai thác kiểu tận diệt. Giai đoạn hiện tại, cấu trúc ngành thủy sản nước ta còn manh mún, do đó, các cơ quan phải cùng nhau, cộng đồng trách nhiệm, cùng với ngư dân, những người tham gia hậu cần ngành thủy sản và các hiệp hội ngành hàng mới có thể quản lý tốt.
Thông qua phiên chất vấn, Bộ trưởng cũng gửi gắm đến lãnh đạo chính quyền địa phương cùng đối thoại để tìm hướng hỗ trợ cho ngư dân, giải quyết được câu chuyện càng cạn kiệt thì càng khai thác, càng khai thác thì càng cạn kiệt. Đồng thời nâng cao năng lực, kỹ năng đi biển và trách nhiệm của ngư dân.
Bộ trưởng kêu gọi phải làm tốt hơn nữa công tác giám sát, tăng cường kiểm tra đầu vào từng chiếc tàu ra khơi, kiểm tra từng thiết bị giám sát hành trình; tăng cường kiểm tra, truy xuất nguồn hàng của doanh nghiệp. Một số biện pháp được đưa ra như siết chặt quản lý đầu vào và quan trọng hơn là đầu ra, thay đổi cách quản trị, sự vào cuộc của hiệp hội ngành hàng thì mới có thể giải quyết thành công vấn đề.
Bộ trưởng Lê Minh Hoan cam kết sẽ tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội để trong thời gian tới thực hiện tốt hơn Đề án quy hoạch khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản cũng như Đề án phát triển khu bảo tồn.
Xác định rõ 3 trụ cột trong kinh tế biển: Khai thác - Nuôi trồng - Bảo tồn
Đại biểu Nguyễn Đại Thắng, Đoàn ĐBQH tỉnh Hưng Yên đề nghị Bộ trưởng Bộ NN-PTNT nêu những giải pháp cấp bách nhằm sớm gỡ được cảnh báo "thẻ vàng" của Ủy ban châu Âu.
Bộ trưởng Lê Minh Hoan thừa nhận, ngành thủy sản bị cảnh báo "thẻ vàng" IUU đã ảnh hưởng rất lớn tới xuất khẩu thủy sản. Tỷ trọng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU có xu hướng giảm dần qua từng năm.
Một trong những nguyên nhân chưa gỡ được cảnh báo "thẻ vàng" là số lượng tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài vẫn còn xảy ra. Việc theo dõi, kiểm soát tàu cá còn có bất cập. Tình trạng tàu cá mất tín hiệu kết nối dài ngày chiếm khoảng trên 15 % so với tổng số lượng tàu cá đã được lắp đặt hệ thống giám sát.
Hiện Bộ NN-PTNT đã xác định rõ 3 trụ cột trong kinh tế biển là khai thác - nuôi trồng - bảo tồn. Bộ cũng đã ban hành quy hoạch khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản và cũng quy hoạch được 11/17 khu bảo tồn biển. Tuy nhiên, nguồn lực đầu tư cho vấn đề này chưa thỏa đáng. Mục tiêu đề ra là đến năm 2030, số khu bảo tồn biển phải chiếm 6% diện tích mặt biển nhưng cho đến nay mới chưa đạt 0,12%.
Về giải quyết, chấm dứt vi phạm trên biển, Bộ trưởng nêu rõ, chỉ cần một chiếc tàu vi phạm là không gỡ “thẻ vàng”. Theo Bộ trưởng, nếu không cấu trúc lại ngành thủy sản, không đẩy mạnh nuôi trồng, không đẩy mạnh bảo vệ nguồn lợi thủy sản, đặc biệt là trong các khu bảo tồn thì cứ mãi mãi câu chuyện tranh chấp về tài nguyên và các ngư dân.
'Ám ảnh tâm trí' chuyện cải thiện thu nhập của nông dân trồng lúa
Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, đoàn ĐBQH Hải Dương hỏi: Việt Nam là quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới, nhưng người làm ra cây lúa còn nghèo, thậm chí rất nghèo. Đại biểu mong Bộ trưởng lý giải vấn đề này. Ngoài ra, bà Nga đề nghị Bộ Công thương cho biết thêm về việc ùn tắc tại cửa khẩu, phụ thuộc thị trường Trung Quốc?
Trả lời bà Nga, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết theo khảo sát, nông nghiệp là ngành thu nhập thấp nhất trong các ngành kinh tế. Người trồng lúa lại có thu nhập thấp nhất trong nông nghiệp. “Việc này chúng ta không nói khác đi được, song có thể làm khác đi. Trong bối cảnh này, giá gạo tăng từng ngày, đây là thời cơ để nâng cao thu nhập cho nông dân. Tôi cảm xúc với tin nhắn của một nông dân miền Tây hồi đầu nhiệm kỳ: Nếu giá lúa cao và thu nhập ổn định thì chúng tôi sẵn sàng mang mùng mền (chăn màn) ra canh lúa, đảm bảo an ninh lương thực. Giá lúa thấp thì chúng tôi đành bỏ ruộng”.
Bộ trưởng nói đó là điều “ám ảnh tâm trí” ông, đó là việc làm sao cải thiện thu nhập của nông dân trồng lúa. Đó không chỉ là giá. Điều cần là làm “bài toán trừ”, giảm bớt chi phí đầu vào như giống, phân, thuốc. Khảo sát của Bộ NN-PTNT cho thấy thời gian qua, nhờ ứng dụng canh tác khoa học, nông dân đã giảm được 25% chi phí đầu vào. “Tổng hợp lại là giảm, mà giảm bao nhiêu là tăng bấy nhiêu. Bài toán kinh tế là cả hai đầu, một đầu giảm và một đầu tăng. Chỉ lấy cái giá thì không nói hết lên bài toán kinh tế”.
Người đứng đầu ngành nông nghiệp bày tỏ lo lắng nếu giá còn tăng cao, sẽ gây rối ngành hàng, thiếu bền vững. Ông vừa đi cùng Thủ tướng đến thăm một HTX gần 400ha, chỉ có 85 hộ thành viên, ngoài đồng có khoảng 40 người. Họ ngồi ngoài đồng, điều khiển máy móc. “Nếu chúng ta chỉ nghĩ người nông dân trồng cái gì hưởng cái đó, thì chúng ta đi chưa đúng tinh thần Nghị quyết 19. Đó là chuyển từ tăng trưởng đơn giá trị, sang tăng trưởng tích hợp đa giá trị”, Bộ trưởng phân tích.
Lý giải cụ thể hơn, Bộ trưởng NN-PTNT cho biết “không gian lúa” có thể tạo ra những ngành khác. Bởi hiện tại, máy móc nhiều, nông dân rảnh rỗi. Do đó, nông dân hoàn toàn có thể làm thêm những việc khác, liên kết cùng làm thêm nông sản khác.
“Chúng ta cần có cái nhìn đa chiều. Chính quyền địa phương có thể nghiên cứu, khuyến khích nông dân vào HTX, mua chung, bán chung, tạo ra nhiều dịch vụ chung. Thu nhập sẽ nằm ở từng phân khúc đó. Không chỉ là trồng lúa rồi bán lúa cho thương lái như bây giờ”.
80% diện tích lúa ở ĐBSCL chiếm 95% sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động trồng lúa còn manh mún, nhỏ lẻ, tự phát, dẫn đến chi phí gia tăng. Chất lượng hạt gạo cũng chưa thực sự xuất sắc. Điều đáng nói là nông dân ĐBSCL thích ứng rất nhanh, trồng xen, nuôi xen giữa các vụ lúa. Có nông dân từng tâm sự với Bộ trưởng rằng “trồng lúa để nuôi tôm”. Không có lúa thì không có cá, tôm. Những động vật này ăn hạt lúa rơi, còn cây lúa sống nhờ phế phẩm từ tôm, cá. Đây là sự tích hợp kinh tế tuần hoàn. Nếu khi tôm xuống giá, thì nông dân mở rộng quy mô trồng lúa.
Xem xét, làm rõ quy định về trình tự, thủ tục khai thác gỗ rừng trồng
Đại biểu Nguyễn Trường Giang – Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Nông cho biết, Thông tư số 26 ngày 30/12/2022, Bộ NN-PTNT quy định về truy xuất nguồn gốc lâm sản, có quy định về trình tự, thủ tục khai thác gỗ rừng trồng.
Theo Nghị định số 57, nông sản từ nuôi, trồng được tự do lưu thông trên thị trường, cơ quan nhà nước không được có các thủ tục hành chính về xác nhận nguồn gốc nguyên liệu và các thủ tục hành chính khác gây khó khăn cho việc khai thác, vận chuyển, tiêu thụ, xuất khẩu nông sản… Do đó, đại biểu đề nghị Bộ trưởng cho biết căn cứ vào đâu để quy định tại Thông tư số 26 về thủ tục này?
Trả lời câu hỏi đại biểu Nguyễn Trường Giang, Bộ trưởng khẳng định sẽ xem lại thông tư 26 và khẳng định trên biển có quy định IUU, trên rừng có quy định riêng về truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông lâm sản sang Châu Âu, có quy định chặt chẽ nếu làm suy thái rừng và mất rừng. Vì vậy, chúng ta cần kiểm soát chặt chẽ khi xuất khẩu các sản phẩm này sang châu Âu.
Sau khi có tranh luận từ đại biểu Nguyễn Trường Giang cho rằng, việc thực hiện cam kết quốc tế là đúng nhưng vấn đề ở đây là thẩm quyền. Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết sẽ xem xét lại các văn bản liên quan để làm rõ vấn đề như đại biểu nêu.
Gỡ 'thẻ vàng' IUU: Khó vẫn phải làm
Đặt câu hỏi chất vấn tại phiên họp, đại biểu Quốc hội Nguyễn Tuấn Anh - Đoàn ĐBQH tỉnh Long An cho biết, Báo cáo giám sát năm 2022 của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội chỉ rõ, khung pháp lý của Việt Nam về IUU chưa cụ thể, khó thực hiện…
Tuy nhiên, trong Báo cáo của Bộ NN-PTNT chưa nêu ra được nhóm giải pháp riêng cho vấn đề này. Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh đề nghị Bộ trưởng cho biết rõ, khung pháp lý của Việt Nam còn những vướng mắc gì và giải pháp, hướng khắc phục trong thời gian tới?
Về các điều kiện khó thực thi gỡ "thẻ vàng", Bộ trưởng khẳng định khó vẫn phải làm, nhưng Bộ sẽ nghiên cứu lại những quy định bất cập để sửa đổi. Tuy nhiên, Bộ trưởng nhấn mạnh, cần thực thi nghiêm quy định, trong đó có quy định tại Luật Thủy sản, có như vậy mới có hiệu quả trong thực tế.
Vấn đề hỗ trợ tiêu hủy lợn mắc bệnh dịch tả lợn châu Phi
Đại biểu Nguyễn Thị Hà - Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh cho biết, bệnh dịch tả lợn châu Phi là loại bệnh mới xuất hiện từ năm 2019, không phải bệnh được hỗ trợ theo các loại dịch bệnh nguy hiểm đã công bố. Vì vậy, Nghị định số 02 năm 2017 của Chính phủ chưa quy định cụ thể về chính sách hỗ trợ tiêu hủy vật nuôi đối với dịch bệnh này.
Việc hỗ trợ cho hộ chăn nuôi có lợn phải tiêu hủy bắt buộc do mắc bệnh mới chỉ được thực hiện và có hiệu lực trong năm 2019 và 2020. Qua các cuộc tiếp xúc cử tri, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh nhận được nhiều phản ánh, từ năm 2021 đến nay, các hộ dân có lợn bị tiêu hủy vẫn chưa nhận được kinh phí hỗ trợ của Nhà nước.
Đại biểu đề nghị Bộ trưởng cho biết Bộ NN-PTNT có kế hoạch tiếp tục hỗ trợ nữa hay không, nguyên nhân vì sao lại chậm hỗ trợ như vậy? Đồng thời chỉ rõ các giải pháp nhằm tiếp tục hỗ trợ kinh phí đối với những trường hợp bắt buộc phải tiêu hủy vật nuôi do dịch bệnh này?
Trả lời đại biểu Nguyễn Thị Hà, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhận thiếu sót với bà con chăn nuôi về việc tiêu hủy dịch tả lợn châu Phi. Bộ đã soạn thảo và trình Chính phủ từ năm 2020 về chính sách hỗ trợ bà con nhưng do dịch bệnh Covid-19 nên phải cân đối nguồn lực.
Bộ trưởng thông tin thêm, gần đây nhất, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang đã đồng ý về dự thảo phê duyệt nghị định hỗ trợ người dân thiệt hại do dịch bệnh.
Vấn đề nuôi biển, hỗ trợ chuyển đổi nghề khai thác thủy sản
Đại biểu Nguyễn Văn Huy, đoàn Thái Bình đề nghị Bộ NN-PTNT cho biết những chính sách sẽ được áp dụng trong hỗ trợ chuyển đổi nghề khai thác thủy sản ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.
Bộ trưởng cho biết, nuôi biển là một cách để giảm khai thác. Cho nên đối tượng ưu tiên đầu tiên chính là giảm đội tàu khai thác. Hiện Bộ đã có nhiều quy hoạch liên quan tới vấn đề này, ngoài việc giảm số lượng tàu, còn là xây dựng các khu neo đậu, tránh trú bão.
Để đảm bảo cuộc sống của ngư dân, Bộ trưởng cho rằng cần sự chung tay của các doanh nghiệp, trong đó có việc doanh nghiệp cần có hệ sinh thái cho những người dân, để đảm bảo người ngư dân tự nguyện không tham gia. Chỉ khi đó, nuôi biển mới có thể thành công, hướng tới đảm bảo cả hai mục tiêu phát triển kinh tế và giảm lượng khai thác.
Về vấn đề chuyển đổi nghề, Bộ trưởng cho biết, Bộ đã có kế hoạch hoạt động về chuyển đổi nghề. Bộ trưởng thừa nhận kế hoạch này hơi chậm so với thực tiễn, chính sách cũng chưa thật sự rõ ràng, chưa đủ sức tạo thành cú hích để hướng tới mục tiêu giảm khai thác, tăng nuôi trồng.
Thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục xem xét, đối thoại với những người dân trong diện chuyển đổi để có các phương án cụ thể, khả thi cho vấn đề này. Bộ trưởng tin rằng, có thể lựa chọn phương án cho bà con ngư dân lên bờ, nhưng vẫn duy trì các công việc liên quan như nuôi biển, nuôi trồng cạn, hoặc nuôi ở ven bờ với cường độ đảm bảo được về môi trường.
Một hướng đi nữa là có thể chuyển hẳn bà con sang nghề khác, tạo điều kiện cho bà con làm du lịch biển, hoặc làm việc trong các khu công nghiệp. Mỗi đối tượng đều phải có chính sách cụ thể kèm theo, không nên đưa ra chính sách chung chung.
Chuyển đổi từ tư duy sản xuất muối sang tư duy xây dựng nền kinh tế muối
Đại biểu Nguyễn Anh Trí, đoàn Hà Nội chất vấn về những giải pháp cụ thể để Việt Nam sử dụng đủ muối dùng, không phải nhập khẩu và để diêm dân có thể sống bằng nghề của mình.
Bộ trưởng cho biết hiện nay nghề muối truyền thống đang gặp nhiều khó khăn, diện tích trồng muối đang thu hẹp, đời sống người dân làm muối chưa đảm bảo. Bộ trưởng cho rằng cần tạo ra giá trị gia tăng nhiều hơn cho ngành này, chuyển đổi từ tư duy sản xuất muối sang tư duy xây dựng nền kinh tế muối, đưa muối không chỉ là một gia vị, mà phải trở thành thực phẩm, dược phẩm, mĩ phẩm.
Hiện Bộ NN-PTNT đang xây dựng các kế hoạch, đề án để triển khai thực hiện theo phương hướng. Nhiều doanh nghiệp đang góp phần tạo ra nhiều giá trị gia tăng hơn cho ngành này, nhằm tạo cuộc sống ổn định cho diêm dân và ngành muối.
Làm rõ thêm về vấn đề ngành muối, theo tranh luận từ đại biểu Nguyễn Anh Trí, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho rằng hiện ngành nông nghiệp đang kêu gọi sự vào cuộc của nhiều doanh nghiệp.
Cả nước đang có hai vùng sản xuất muối lớn, tại Duyên hải miền Trung và khu vực Thái Bình. Đây sẽ là nơi để Bộ có thể triển khai một số dự án thí điểm, phát triển ngành muối bền vững.
'An ninh lương thực không chỉ là lúa, gạo'
Đại biểu Đoàn Thị Hảo - Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Nguyên cho biết Nghị quyết 34 của Chính phủ nêu khả năng tiếp cận lương thực đa dạng, kịp thời, đủ dinh dưỡng vẫn là thách thức rất lớn đối với người dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Với trách nhiệm của mình, đại biểu đề nghị Bộ trưởng cho biết giải pháp cụ thể để giải quyết được thách thức nêu trên?
Bên cạnh đó, một trong những quan điểm tại Nghị quyết 34 của Chính phủ là an ninh lương thực quốc gia phải gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, bảo đảm an ninh lương thực cho người dân trong mọi tình huống, không chỉ tập trung vào tính sẵn có, khả năng tiếp cận mà còn bảo đảm cân bằng dinh dưỡng, an toàn thực phẩm. Đại biểu đề nghị Bộ trưởng cho biết Bộ đã triển khai những chương trình cụ thể nào để thực hiện quan điểm trên?
Về vấn đề an ninh lương thực, Bộ trưởng cho biết hiện đã tiếp cận theo hướng an ninh lương thực, thực phẩm và cân bằng dinh dưỡng. Đây là phạm trù rộng, an ninh lương thực không chỉ là lúa, gạo mà còn là các sản phẩm ngũ cốc để cân bằng dinh dưỡng.
Vì vậy, phải nâng cao cách tiếp cận cho người dân thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia, chứ không chỉ khuyến khích người dân trồng các sản phẩm khác ngoài lúa, gạo.
Theo Bộ trưởng, cần sự tham gia của Bộ Y tế, từ bếp ăn trong trường học và hy vọng có chương trình mục tiêu quốc gia về dinh dưỡng, tập trung xã hội hóa về lĩnh vực này để đảm bảo tiêu chí của Liên hợp quốc.
Gỡ 'thẻ vàng' IUU: Mục tiêu cuối là giữ gìn trữ lượng và tính đa dạng sinh học
Đại biểu Trần Thị Hồng Thanh - Đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Bình nêu rõ, "thẻ vàng" IUU không chỉ gây thiệt hại lớn về kinh tế mà còn ảnh hưởng đến uy tín, vị thế quan hệ ngoại giao của nước ta. Đến nay đã gần 6 năm, nước ta vẫn chưa gỡ được "thẻ vàng". Dự kiến, Ủy ban châu Âu sẽ tiến hành đánh giá lần 4 trong tháng 10 tới và nước ta đặt mục tiêu gỡ "thẻ vàng" trong lần đánh giá này. Đại biểu đề nghị Bộ trưởng cho biết 5 giải pháp mà Bộ đề ra đã đồng bộ, đầy đủ và triệt để chưa? Và Việt Nam có thể đạt mục tiêu gỡ "thẻ vàng" IUU trong lần đánh giá thứ 4 của Ủy ban châu Âu vào tháng 10/2023 tới không?
Về vấn đề gỡ thẻ vàng, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, mục tiêu cuối cùng là giữ gìn trữ lượng và tính đa dạng sinh học trên vùng biển. Nếu gỡ "thẻ vàng" nhưng tính bền vững không được đảm bảo thì sẽ bị áp dụng "thẻ vàng" khác. Bộ trưởng cho biết, so sánh với Philippines hoặc Thái Lan, cấu trúc ngành hàng của các quốc gia này bền chặt hơn Việt Nam, từ ngư dân tới doanh nghiệp được xây dựng hệ sinh thái ngành hàng. Các quốc gia này sử dụng các biện pháp rất mạnh, như đánh đắm tàu vi phạm quy định. Trong khi đó ở Việt Nam, gần 60% vi phạm ở các địa phương vẫn chưa được xử lý, Bộ NN-PTNT sẽ chuyển danh sách này tới Thủ tướng Chính phủ.
Bộ trưởng khẳng định, đã đến lúc phải xử lý nghiêm nếu không sẽ không đủ sức răn đe, không có sự thay đổi.
Tích hợp đa giá trị để giữ vị thế cây điều
Đại biểu Điểu Huỳnh Sang - Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Phước cho biết, trồng và sản xuất hạt điều là một trong những mặt hàng nông nghiệp chủ lực của Việt Nam. Tuy nhiên thời gian qua, vị trí ngành điều của nước ta đang bị lung lay trên thị trường thế giới… Đại biểu cho biết, các doanh nghiệp trồng và sản xuất điều lớn trong nước hiện đang có xu hướng tăng nhập khẩu. Vị trí dẫn dầu trong ngành điều của nước ta trên thế giới, cũng như thương hiệu điều Việt Nam đang bị ảnh hưởng… Đại biểu Sang đề nghị, Bộ trưởng nêu rõ những giải pháp để ngành điều nước ta phát triển bền vững trong thời gian tới?
Trả lời câu hỏi của đại biểu Điểu Huỳnh Sang – Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Phước, Bộ trưởng Lê Minh Hoan chia sẻ với người trồng điều ở Bình Phước, nhiều người chặt bỏ điều chuyển sang trồng sầu riêng. Có thời điểm, chúng ta mong muốn và hào hứng Bình Phước sẽ trở thành thủ phủ của cây điều và Việt Nam đứng đầu thế giới về điều.
Nhưng bối cảnh hiện nay đã thay đổi, trước kia Việt Nam nhập điều thô từ các quốc gia Tây Phi nhưng hiện các quốc gia này bắt đầu tăng cường chế biến và xuất khẩu điều thô. Điều sản xuất trong nước để chế biến xuất khẩu chỉ chiếm 20-30%, điều này đặt ra yêu cầu tái cấu trúc ngành điều Việt Nam.
Bộ trưởng cho biết, hiện nay đang thí điểm trồng nấm linh chi đỏ dưới tán điều ở Bình Phước, nghĩa là một mảnh đất tích hợp đa giá trị, chỉ khi ấy người nông dân mới có thể giữ cây điều. Bộ cũng đang trình Thủ tướng Chính phủ Đề án phát huy giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng, trong đó điều cũng là một dạng rừng, để tạo ra sinh kế nhiều hơn, ngoài nguồn thu hoạch từ điều.
Tư duy lại vấn đề 'giải cứu' nông sản
Đại biểu Nguyễn Thanh Phong, đoàn Vĩnh Long cho biết, nông sản rớt giá khi thu hoạch, thanh long, khoai lang rớt giá thê thảm,... là một điển hình ảnh hưởng đến đời sống người dân. Đại biểu đề nghị Bộ trưởng cho biết giải pháp "giải cứu" nông sản cho Đồng bằng sông Cửu Long.
Bộ trưởng cho biết, chúng ta không nên dùng từ “giải cứu”, vì càng kêu gọi thì nông sản càng mất giá. Khi đó, người dân sẽ không chăm sóc nữa. Vì thế, ông kêu gọi tư duy lại vấn đề này.
Bộ trưởng lưu ý khoai lang Bình Tân ở Vĩnh Long đang được giá, nhưng do chen lấn giữa thương lái, doanh nghiệp, đồng thời người nông dân không theo HTX nào, khiến bà con nông dân khó hưởng lợi.
Khi mở cửa thị trường cho khoai lang, ai cũng phấn khởi. Nhưng do hiệu ứng được mùa mất giá, nên sau một mùa mất vụ, giờ Bình Tân không đủ khoai lang để xuất. Ngoài ra, hiện 40% khoai lang ở cửa khẩu không đủ chất lượng để xuất khẩu.
Về riêng sầu riêng, Bộ trưởng cho rằng cần tập hợp bà con, thông tin thị trường, kết nối thị trường, làm thế nào để bất kỳ hiệu ứng nào cũng có thể phản ánh tới bà con. Ngoài ra, Bộ trưởng thừa nhận trách nhiệm của ngành nông nghiệp trong việc tổ chức sản xuất sầu riêng chưa được bài bản như kỳ vọng.
'Không nên nhầm lẫn giữa thương hiệu và nhãn hiệu'
Đại biểu Chu Thị Hồng Thái, đoàn ĐBQH tỉnh Lạng Sơn đề nghị cho biết, quá trình xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt bởi nhiều chuyên gia nhận định, hiện nay có đến 80% các sản phẩm nông sản Việt Nam xuất khẩu sang nước ngoài chưa có thương hiệu, chủ yếu là xuất khẩu thô.
Trả lời, Bộ trưởng giở một tập tài liệu ghi các nông sản Việt đã đứng chân ở siêu thị nước ngoài. Ông cho rằng đây là một quá trình lâu dài, khó khăn của các ngành hàng.
Hiện Bộ đã tập trung vào các mặt hàng có thế mạnh, đã có gạo, cà phê rồi giờ Bộ đang chuẩn bị thêm sầu riêng. Để có thể tạo dựng thương hiệu, cần tổ chức sản xuất và có sự đồng lòng của bà con, thương lái.
Bộ trưởng cho rằng không nên nhầm lẫn giữa thương hiệu và nhãn hiệu. Thương hiệu gồm nhãn hiệu (được in ấn) và các giá trị in sâu vào trong tiềm thức. Nghĩ tới thương hiệu là nghĩ thêm các giá trị đi kèm.
Nuôi trồng là giải pháp gần như duy nhất để giảm cường lực khai thác hải sản
Đại biểu Huỳnh Thị Ánh Sương, đoàn Quảng Ngãi nêu 2 câu hỏi. Một là, nhiều nhà đầu tư đặt vấn đề nuôi trồng thủy sản, nhưng trước tình hình quy hoạch nuôi biển hiện còn lúng túng. Giải pháp của Bộ NN-PTNT về vấn đề này.
Hai là, hiện nay các tàu đánh cá có công suất lớn không về cập cảng tại địa phương, gây khó khăn trong công tác quản lý theo yêu cầu của Ủy ban châu Âu (EC) về chống khai thác IUU.
Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, theo thống kê, trữ lượng thủy sản ở biển Đông khoảng 3,9 triệu tấn. Hiện chúng ta đã khai thác tới 3,6 triệu tấn, nghĩa là đã đạt ngưỡng. Do đó, nuôi trồng là giải pháp gần như duy nhất để giảm cường lực khai thác.
Việc nuôi biển, Bộ trưởng thừa nhận, còn một số vướng mắc. Bộ trưởng cam kết sẽ tiếp tục rà soát, điều chỉnh để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư. Ông cũng nói thêm rằng, quy hoạch về không gian biển liên quan đến nhiều vấn đề về an ninh, quốc phòng. Do đó, cần tham khảo thêm nhiều bên liên quan.
Về vấn đề giám sát tàu cá, Bộ trưởng thừa nhận có hiện tượng tàu trên 15m không về cập cảng ở địa phương. Theo ông, điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có việc các tàu đi theo đàn cá. Khi đàn cá đi xa, vào vùng khơi, vùng lộng thì ngư dân rất khó trở lại điểm xuất phát. Những giải pháp hiện tại bằng công nghệ số khó có thể giải quyết được vấn đề này.
Tuy nhiên, Việt Nam có thể tham khảo các phương pháp của các nước láng giềng như Thái Lan. Hiện Thái Lan có vùng biển gần tương đương Việt Nam, nhưng đội tàu chỉ khoảng 40.000, bằng một nửa so với chúng ta.
Tính toán giải pháp hài hòa cho cả lao động nông nghiệp lẫn phi nông nghiệp
Đại biểu Lý Tiết Hạnh - Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Định cho biết, theo nghiên cứu, tại Việt Nam, tỷ lệ người dân sinh sống, làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp cao, tuy nhiên, đây cũng là những người có thu nhập bình quân thấp, bấp bênh, nhất là những vùng thuần nông. Đây cũng là mâu thuẫn giữa thực trạng đời sống của người dân với chính sách bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
Nếu không có chính sách hữu hiệu, nguy cơ người dân bỏ đất, bỏ ruộng sẽ cao, ảnh hưởng trực tiếp đến chủ trương bảo đảm an ninh lương thực, phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao đời sống, thu nhập của người dân, đặc biệt là những người sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp.
Đại biểu đề nghị Bộ trưởng cho biết quan điểm và các giải pháp của Bộ trưởng trong thời gian tới để khắc phục vấn đề này?
Trả lời đại biểu Lý Tiết Hạnh, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết theo số liệu thống kê thì tỉ lệ người dân nông thôn là 27%, nghĩa là trong suốt quá trình vừa qua đã kéo giảm khu vực nông nghiệp và giảm tỷ trọng người dân làm nông nghiệp. Tuy nhiên, cư dân ở nông thôn khoảng 65%, tức là ở nông thôn bao gồm cán bộ, công chức và những người hoạt động trong lĩnh vực phi nông nghiệp và nông thôn cũng rất lớn.
Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho rằng, cần có những giải pháp không chỉ cho những người nông dân trực tiếp và những người lao động ở khu vực nông nghiệp, tính toán hài hòa cả người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và những người lao động trong lĩnh vực phi nông nghiệp.
Theo đó đảm bảo là người người dân vẫn còn giữ đất nhưng trong thời gian không sử dụng thì có cách để quỹ đất đó tạo ra của cải, tạo ra thu nhập tốt hơn cho người dân.
Chuyển đổi đất trồng lúa: Cân nhắc và cẩn trọng giữa phát triển và giữ gìn
Đại biểu Lê Thanh Hoàn - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa chất vấn: đất đai, đặc biệt là đất trồng lúa có vai trò rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và vấn đề đảm bảo an ninh lương thực. Đại biểu đề nghị Bộ trưởng làm rõ đến hiện tại đã có quy hoạch và chốt được vị trí các khu vực đất lúa để cấm không cho phép chuyển đổi sang mục đích khác để người dân, doanh nghiệp yên tâm canh tác, cải tạo đất, tăng năng suất, tăng sản lượng thóc gạo, góp phần đảm bảo an ninh lương thực của Việt Nam trong thời gian tới.
Trả lời câu hỏi về đất lúa, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, cách đây 10 năm thì quy mô đất lúa nước ta khoảng trên 4 triệu hecta. Hiện tại theo số liệu thống kê đất lúa còn 3,93 triệu hecta.
Theo Nghị quyết Quốc hội và Nghị quyết của Chính phủ là chúng ta sử dụng linh hoạt 5 triệu hecta đất lúa. Bộ trưởng làm rõ, linh hoạt ở đây có nghĩa là để đảm bảo an ninh lương thực và để sự phát triển kinh tế - xã hội thì cũng phải dành một quỹ đất nông nghiệp, trong đó có đất lúa.
Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết về quy hoạch đất lúa nằm trong quy hoạch đất đai. Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm chính về vấn đề này. Tại các các địa phương cũng đã đều ổn định những diện tích đất lúa và đã có trong quy hoạch của tỉnh, xác định rõ phân khu vực dành cho đất nông nghiệp.
Bộ trưởng Bộ NN-PTNT cũng lưu ý các địa phương trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội cố gắng giữ gìn quỹ đất lúa, cân nhắc khi chuyển đổi đất trồng lúa bởi còn nhiều hệ lụy ảnh hưởng phía sau như về sản lượng lúa, bao nhiêu người nông dân trên đất lúa đó, rồi một chuỗi ngành hàng, doanh nghiệp chế biến, dịch vụ thương mại, những con người ở phía sau chuỗi ngành hàng đó…
Do đó, Bộ NN-PTNT cũng sẽ kiên trì cùng với các địa phương để phân tích những tình huống khi nào chuyển đổi, khi nào không chuyển đổi với nguyên tắc cân nhắc và cẩn trọng giữa phát triển và giữ gìn.
Chỉ có liên kết mới có thể nâng cao chất lượng nông sản
Đại biểu Phạm Hùng Thắng, đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Nam cho biết, hiện nay việc liên kết sản xuất với tiêu thụ nông sản ở một số địa phương còn chậm, liên kết theo chuỗi giá trị để thúc đẩy cơ giới hóa còn hạn chế. Ngoài ra, kết nối liên vùng, kết nối thị trường còn rời rạc; chi phí logistics còn cao; việc đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ cao chưa trở thành động lực phát triển ngành nông nghiệp. Đại biểu đề nghị Bộ trưởng Bộ NN- PTNT cho biết giải pháp trong thời gian tới để khắc phục tình trạng trên?
Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, liên kết chuỗi là chiến lược của ngành nông nghiệp nhằm thay đổi thực trạng manh mún, nhỏ lẻ, tự phát của nền nông nghiệp nước ta. Chính sự manh mún, nhỏ lẻ, tự phát nên việc hợp tác giữa những người sản xuất với nhau và liên kết giữa người sản xuất với doanh nghiệp theo một chuỗi ngành hàng là nhu cầu tối cần thiết.
Chỉ có liên kết với nhau chúng ta mới có thể nâng cao chất lượng nông sản, chuyển từ sản phẩm nông nghiệp thành một thương phẩm, đảm bảo chuẩn mực của thị trường. Chúng ta cần phân biệt sản phẩm và thương phẩm, sản phẩm là cái mà chúng ta có thể làm ra được, thương phẩm là cái mà tạo ra giá trị cao và có thể đến được với thị trường.
Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng thống nhất với nhận định của đại biểu về thực trạng liên kết còn chậm. Theo báo cáo của các địa phương thì chỉ khoảng 20% diện tích nông nghiệp có nằm trong chuỗi liên kết ngành hàng và không phải chuỗi nào cũng bền vững.
Vấn đề đặt ra là nâng cao tính bền vững của các chuỗi liên kết này trong thời gian tới, từ đó khắc phục được tình trạng được mùa mất giá hay câu chuyện nông dân bội tín với doanh nghiệp hay câu chuyện doanh nghiệp bỏ cọc hay thương lái bỏ cọc, lúa bỏ trên đồng, quả bỏ trên cây.
Muốn giải mã được những chuỗi này cần đến sự phát triển của kinh tế hợp tác, chỉ có hợp tác xã mới có thể làm được vì nếu chỉ những người nông dân đơn độc thì không thể hình thành chuỗi và sẽ xuất hiện những mâu thuẫn.
Dẫn ví dụ về lúa gạo hay sầu riêng, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, việc giá tăng cũng có tích cực nhưng cũng bắt đầu xuất hiện những đứt gãy nhất định trong chuỗi cung ứng, nhất là khi có động thái nâng giá của những doanh nghiệp ngoài chuỗi thì người nông dân sẵn sàng bỏ chuỗi, bỏ cam kết với doanh nghiệp.
Chuỗi liên kết cũng là cơ sở để phát triển ngành logistics, vì logistics không thể phục vụ kinh tế hộ mà cần quy mô lớn hơn. Tương tự, số hóa cũng cần đến quy mô lớn để có thể triển khai một cách hiệu quả. Ví dụ về vấn đề này, Bộ trưởng nêu hình mẫu về một HTX ở Đồng Tháp mà ông vừa tháp tùng Thủ tướng Phạm Minh Chính đến thăm cuối tuần qua.
Việc liên kết chuỗi cũng được Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho là điều kiện cần để có thể đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất.
Nhiệm vụ số một là đảm bảo an ninh, thứ hai mới là đẩy mạnh xuất khẩu gạo
Đại biểu Lê Thị Song An, đoàn Long An đề nghị Bộ NN-PTNT cho biết giải pháp đảm bảo an ninh lương thực quốc gia trong tình hình giá lúa gạo tăng cao. Bà An cũng mong muốn, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nói rõ giải pháp vừa bảo đảm an ninh lương thực, vừa nâng cao giá trị xuất khẩu, đảm bảo cuộc sống.
Bộ trưởng Lê Mih Hoan cho biết, Bộ NN-PTNT đã sớm có báo cáo với Thủ tướng Chính phủ, Thủ tướng cũng đã có công điện chỉ đạo khi nảy sinh vấn đề mất an ninh lương thực, hoặc khi một số quốc gia cấm xuất khẩu gạo làm nảy sinh cơ hội, thời cơ cho chúng ta. Bộ trưởng đề nghị các bên liên quan cần có thái độ bình tĩnh, vì mọi vấn đề đều có thể phát sinh mặt trái nếu không quản lý tốt, nếu chỉ phân tích một khía cạnh, một phía, thì sẽ không có được cái nhìn toàn diện.
Tại phiên chất vấn chiều nay, Bộ trưởng tin có nhiều cử tri ở ĐBSCL. Bộ trưởng chia sẻ, rằng ngày nào ở ĐBSCL cũng xuống giống, vì ĐBSCL xuống giống theo con nước. Nếu không có biến động theo con nước, thì Việt Nam sẽ không gặp vấn đề gì trong việc xuất khẩu 7-8 triệu tấn gạo.
Tuy nhiên, khoảng 20% diện tích lúa ĐBSCL nằm trong liên kết và vẫn còn tới 80% diện tích ngoài liên kết. Ngoài vấn đề này, Bộ trưởng chia sẻ, rằng giá nông sản nói chung, trong đó có giá lúa, chịu quy luật cung cầu. Ngoài ra, tại Việt Nam giá lúa gạo còn chịu nhiều vấn đề khác như vấn đề đặt cọc, câu chuyện thỏa thuận, mua bán, mùa vụ…
Trước thời cơ như hiện tại, Bộ trưởng kêu gọi các bên phải tôn trọng nhau, phải chia sẻ thời cơ, làm sao để mùa sau mọi người còn có thể mua bán, thỏa thuận, làm ăn với nhau. Theo Bộ trưởng, Thủ tướng và Chính phủ đã chỉ đạo rất rõ. Nhiệm vụ số một là đảm bảo an ninh, thứ hai mới là đẩy mạnh xuất khẩu gạo. Việc xuất khẩu gạo, theo Bộ trưởng, như một cam kết của Việt Nam với lương thực thế giới.
Công tác dự báo khó có thể cầu toàn, mà cần có sự linh hoạt ngắn hạn
Đại biểu Tạ Minh Tâm, đoàn Tiền Giang đề nghị Bộ trưởng cho biết hiệu quả công tác thông tin, dự báo tình hình nông sản và công tác quy hoạch để đảm bảo sản xuất, quy chuẩn xuất khẩu trong thời gian qua; trách nhiệm của Bộ NN-PTNT và Bộ Công thương để nâng cao giá trị xuất khẩu nông sản Việt?
Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước 3 “biến” lớn: biến đổi khí hậu, biến động thị trường và biến chuyển xu thế tiêu dùng. Trong điều kiện thế giới thay đổi hàng ngày, hàng giờ, những xung đột, những chính sách của các nước thay đổi liên tục, công tác dự báo khó có thể cầu toàn, mà cần có sự linh hoạt ngắn hạn.
Trong hoàn cảnh như vậy, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho rằng, kỳ vọng vào việc dự báo cần có giới hạn nhất định. Theo ông, những dự báo trong dài hạn cần nhiều nỗ lực để đảm bảo tính chính xác. Ngược lại, những dự báo ngắn hạn có sự thay đổi liên tục, chẳng hạn rất khó để biết khi nào Ấn Độ xuất khẩu gạo trở lại.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành phiên chất vấn
Điều hành phiên chất vấn, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, chiều nay (15/8), Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn về nhóm vấn đề thuộc lĩnh vực trách nhiệm của Bộ NN-PTNT.
Đầu tiên là giải pháp tháo gỡ khó khăn cho xuất khẩu nông sản (thị trường đầu ra bị thu hẹp, nhiều doanh nghiệp không có đơn hàng, một số mặt hàng nông sản chủ lực bị rớt giá, thu nhập, đời sống của người nông dân bị ảnh hưởng...).
Hai là, hoạt động khai thác, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản; giải pháp tháo gỡ “thẻ vàng” của Ủy ban châu Âu (EC) đối với thủy sản. Ba là, việc chuyển đổi mục đích sử dụng, thu hồi diện tích đất trồng lúa, bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu gạo.
Phát biểu tại phiên chất vấn, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan cho biết, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn được lựa chọn chất vấn tại phiên họp vừa là trách nhiêm, vừa là động lực để Bộ NN-PTNT lắng nghe các vấn đề đã được phát hiện từ lâu và những vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn.
Đơn cử, nội dung về đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu gạo, các bản tin, bài viết, ghi nhận được cập nhật hàng giờ, hàng ngày trên các kênh truyền thông hay qua trao đổi từ các đại biểu Quốc hội, các địa phương, các doanh nghiệp và bà con nông dân trực tiếp gửi đến Bộ NN-PTNT và cá nhân Bộ trưởng.
Bộ trưởng Bộ NN-PTNT hiểu rằng các nội dung này không chỉ quan trọng trong công tác chỉ đạo, điều hành, mà mỗi tin tức về giá cả, tin tức về giá lúa gạo là nỗi thấp thỏm, lo âu, niềm vui, sự phấn khởi của người dân làm nên hạt lúa gạo.
Nông nghiệp luôn là trụ đỡ trong bối cảnh kinh tế khó khăn và ngành nông nghiệp đã, đang và sẽ đối mặt với ba chữ “biến”: Biến đổi khí hậu, biến động thị trường, biến chuyển với xu thế tiêu dùng của thế giới theo hướng xanh, bền vững.
Do đó, từ các thực tiễn này, ngành NN-PTNT vẫn kiên trì thực hiện chiến lược tổng thể trong dài hạn, vừa linh hoạt xử lý tình huống, quản trị đồng bộ trong ngắn hạn.
Bộ NN-PTNT thực hiện chức trách quản lý chuyên ngành mang tính chất kinh tế, kỹ thuật trong khi đó Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội quán xuyến, bao quát các lĩnh vực từ kinh tế, văn hóa, xã hội đến quốc phòng, an ninh sẽ có cách tiếp cận vấn đề với nhiều góc độ khác nhau. Trên tinh thần đó, Bộ trưởng xin lắng nghe ý kiến và trao đổi làm rõ thêm các vấn đề thuộc lĩnh vực quản lý.