Báo cáo Thủ tướng tại buổi làm việc mới đây, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, thời gian qua cơ quan này đã sử dụng các công cụ để kiểm soát rủi ro đối với tín dụng vào lĩnh vực bất động sản, chứng khoán, như giảm dần tỷ trọng sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn (hiện nay là 40%), áp dụng hệ số điều chỉnh rủi ro cao, giới hạn dư nợ cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán so với vốn điều lệ…
Kết quả là tốc độ tăng tín dụng vào lĩnh vực bất động sản có xu hướng chậm lại, dư nợ tín dụng để đầu tư kinh doanh chứng khoán chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ tín dụng chung. Tuy nhiên, để phòng ngừa rủi ro phát sinh đối với hệ thống, Ngân hàng Nhà nước cũng yêu cầu các tổ chức tín dụng phải tập trung quản trị, kiểm soát rủi ro trong mọi mặt hoạt động, kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay để đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích…
Theo bà Nguyễn Thị Hồng, tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam hiện là trên 140%, nằm trong nhóm nước có tỷ lệ cao nhất theo đánh giá của quốc tế. Nếu để tỷ lệ này tiếp tục tăng cao và vốn vay trung dài hạn cũng dựa nhiều vào ngân hàng thì sẽ tạo áp lực lớn đối với việc cân đối vốn của hệ thống ngân hàng và cân đối vĩ mô.
Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước kiến nghị Thủ tướng quan tâm chỉ đạo để phát triển thị trường tài chính theo hướng hài hoà giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thực tiễn hoạt động ngân hàng thời gian qua cho thấy doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm trên 90% số lượng doanh nghiệp của Việt Nam nhưng khả năng tiếp cận vốn hạn chế do năng lực tài chính, quản trị, phương án kinh doanh khả thi, quản trị dòng tiền còn hạn chế, có những doanh nghiệp không đủ điều kiện vay vốn...
Mặt khác, một trong những vấn đề quan tâm lớn hiện nay là tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại nhà nước bởi nếu không được bổ sung thì khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế sẽ bị hạn chế, thị phần của khối ngân hàng thương mại Nhà nước thu hẹp lại, khó hiện thực hóa chỉ tiêu có ít nhất 1 đến 2 ngân hàng thương mại nằm trong tốp 100 ngân hàng lớn nhất về tổng tài sản khu vực châu Á theo Chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2025, định hướng 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Về vấn đề xử lý nợ xấu, do tác động của đại dịch Covid nên nợ xấu có xu hướng tăng lên. Đối với trụ cột hệ thống ngân hàng cung ứng dịch vụ, chủ yếu là dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế, vướng mắc lớn nhất hiện nay là thiếu hành lang pháp lý đồng bộ cho vấn đề mới phát sinh như vấn đề cho vay ngang hàng, quản lý tiền điện tử, tiền kỹ thuật số…
Chỉ đạo tại buổi làm việc, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã yêu cầu Ngân hàng Nhà nước tổng hợp, phân tích dữ liệu để có đánh giá nhằm kiểm soát tín dụng vào lĩnh vực rủi ro như tín dụng bất động sản và chứng khoán.
Về lâu dài, ngành ngân hàng cần có giải pháp căn cơ, phát triển thị trường tài chính đảm bảo ổn định, lành mạnh và cân bằng giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn để giảm sức ép cung ứng vốn từ hệ thống tổ chức tín dụng, đáp ứng nhu cầu huy động vốn trung và dài hạn của nền kinh tế.
Ngân hàng Nhà nước phải xây dựng kịch bản ứng phó dịch Covid-19, cắt giảm chi phí, chia sẻ lợi nhuận, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn phục hồi sản xuất. Tuy nhiên, không được hạ chuẩn cho vay, tránh gây rủi ro đối với hệ thống ngân hàng.
Về lĩnh vực tái cơ cấu và xử lý nợ xấu, Ngân hàng Nhà nước cần làm quyết liệt nhưng trên nguyên tắc đảm bảo an toàn hệ thống, an toàn tiền gửi của người dân; phối hợp các bộ, ngành tạo cơ chế phù hợp thu hút nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tham gia tái cơ cấu đảm bảo hiệu quả. Đề ra các giải pháp trước mắt và lâu dài trong việc xử lý nợ xấu, đảm bảo tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát chặt chẽ.
Đảm bảo ứng dụng công nghệ hiện đại thích ứng với sự bùng nổ của cuộc cách mạng 4.0 trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng nhằm mang lại sự tiện ích, an toàn cho người dân trong sử dụng dịch vụ tài chính; phối hợp chặt chẽ có hiệu quả với các bộ, ngành trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý để tạo điều kiện, môi trường cho các sản phẩm mới, sản phẩm sáng tạo công nghệ để góp phần phát triển nền kinh tế số...