Chiến sĩ công an Trần Lê Anh Tuấn đang mang lon thiếu tá, làm việc tại Sở Công an tỉnh Phú Yên, có thể xem như một trường hợp khá độc đáo vài năm gần đây trong đời sống thi ca. Công tác ở một ngành không yêu cầu tố chất văn chương, nhưng anh lại có chí hướng tìm kiếm và thân thiện với những sáng tạo văn chương. Kết quả của hành trình không đơn giản, chiến sĩ công an Trần Lê Anh Tuấn có được một giọng thơ khác lạ ở môi trường trầm bổng bao nhiêu vần điệu quen thuộc xung quanh.
Một đặc tính của thơ đích thực là dễ dàng hình dung về tác giả qua những câu chữ do họ viết ra. Chẳng ai giấu được mình trong thơ, trừ khi thể hiện qua thứ na ná thơ. Nói cách khác, thơ mang được dấu vết số phận người viết, thì thơ tương tự Chat GPT. Thử mở Chat GPT thơ của chiến sĩ công an Trần Lê Anh Tuấn, xem có được thông tin gì.
Hỏi, Trần Lê Anh Tuấn từng có hoàn cảnh sống ra sao? Chat GPT thơ trả lời: “Tôi trọ đã ba phố/ Mỗi lần đi thêm một tuổi khuya/ Chiếc chìa khóa cũ thân quen/ Giờ lần tìm từng góc xưa rêu phủ”.
Hỏi tiếp, Trần Lê Anh Tuấn có những niềm riêng gì? Chat GPT thơ trả lời: “Anh ở đây/ Một giáo đường mưa/ Một mùi hương sạch/ Một ngọn đèn lả bóng/ Một mộng thương hồ/ Một đêm đông tỉnh lẻ / Và những cái ly đựng đầy tiếng chuông/ Anh uống từng con sóng ngày xưa vỗ vàng bông điên điển”.
Cũng dùng thi ca, Trần Lê Anh Tuấn phác họa được vùng đất miền cao Đồng Xuân nơi anh sinh thành “Người qua nhau quá giang về đâu/ Sương giăng thị trấn lên đỉnh núi” và vùng đất phố nhỏ Tuy Hòa nơi anh cư ngụ “Phố thành thật rét/ những cây cầu/ Sông thành thật trôi/ dưới đáy sâu”. Hơn nữa, bằng sự bận tâm không dễ dãi của mình, Trần Lê Anh Tuấn có cách riêng thảng thốt với quê hương: “Đừng ghi vào sóng/ Những ngọn tháp say/ Ngàn sau mê tỉnh/ Một lần cỏ cây”.
Trần Lê Anh Tuấn luôn viết những câu thơ tách khỏi mẹo điển cố và luật văn phạm. Thơ anh không nuông chiều cảm xúc, mà chọn lọc cảm xúc. Thái độ chuyên nghiệp ấy, giúp anh nhẹ nhàng gọi tên sự rung động, thay cho việc gắng gượng gọi tên sự quan sát. Vì vậy, trong thơ anh, ngoại cảnh cũng xao xác “Tiếng đàn vô gia cư/ Vang lên tự do/ Cánh đồng của tuổi cỏ thơm/ Bay trong nhớ quên tóc lạ” mà nội tâm cũng run rẩy “Bao nhiêu vụng dại nở hoa/ Mà trăm năm như đường vắng/ Nhớ em bỏng những ngón tay”.
Ưu điểm vượt trội của Trần Lê Anh Tuấn là tránh xa mọi kiểu làm dáng thi ca. Khi thật cần thiết, anh chỉ làm mới hình ảnh để đặt vào không gian bài thơ. Núi Chóp Chài có dịp xuất hiện khá thú vị trong thơ anh, với thao tác một địa danh được tách ra thành hai ký hiệu thẩm mỹ: “Chóp mơ mai/ Chài sương khói”.
Trần Lê Anh Tuấn có vẻ tìm được phong cách thơ không mấy khó khăn. Bí quyết gì? Đó là anh để thơ xen vào cấu trúc vận hành đời thường bằng sự thổn thức cá nhân, dẫu viết về một đối tượng cụ thể “Em bây giờ sử thi/ Là nghi lễ của mùa xuân/ Là mù sương không cài cửa/ Là ánh trăng đổ đầy rượu” hoặc viết về một kỷ niệm mơ hồ “Mùa thu lãng quên lối cũ/ Thồ không một tiếng ngựa xa/ Và em cung đường sương phủ/ Quanh co trên sợi tóc già”.
Cho nên, anh có được những câu thơ miên man đối thoại thực hư, giữ lại chớp sáng giữa sương mù, níu lấy giọt mưa giữa nắng bỏng: “Ở thành phố này có những câu chuyện thoảng mùi khuya khoắt/ Tôi với ông một trẻ một già một bóng hồng leo lắt thời gian/ Ông rót kí ức qua tôi bằng ánh mắt cát chảy/ Tôi biết mình từ đây mang theo những con sóng biển và một lưỡi liềm/ không cắt nổi bờ bãi dấu chân”.
Với tập thơ đầu tay “Phố trọ”, Trần Lê Anh Tuấn ở tuổi 36 đã khẳng định thơ anh coi trọng cả ngữ nghĩa lẫn ngữ âm, để sau mỗi dấu chấm câu còn ngân lên một nốt nhạc không lẫn khuất trong bản hòa thanh mệnh kiếp con người. Anh chấp nhận thử thách “Đứng trên miệng núi lửa/ Thấy lòng mình cháy sém một màu cây” thì chắc chắc con đường thơ của anh còn rất dài phía trước “Chân trời gọi anh rời đi/ Qua đông đảo tiếng cười tìm lặng im tiếng khóc/ Anh đi như mũi tên/ Mà những bông hoa mang vết thương thầm rưng rức hương”.