Đình nguyên Hoàng giáp Bùi Sĩ Tiêm: 'Còn một lòng âu việc nước'

Nguyên Phong - Thứ Ba, 28/01/2025 , 08:00 (GMT+7)

Cuộc đời làm quan của Bùi Sĩ Tiêm sẽ còn thăng tiến nếu ông không nói lời ngay thẳng để vạch ra những nguyên nhân khiến xã hội lúc đó rối ren, hỗn loạn.

Bùi Sĩ Tiêm (1690 - 1733), quê ở làng Kinh Lũ, huyện Đông Quan (nay là làng Kinh Hào, xã Đông Kinh, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình). Ông đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Ất Mùi niên hiệu Vĩnh Thịnh năm thứ 11 thời Lê Dụ Tông (1715). Năm đó, Bùi Sĩ Tiêm, Nguyễn Quý Ân cùng đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân và 18 người đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Khoa thi có 2.500 người ứng thí nhưng chỉ đỗ 20 người, Bùi Sĩ Tiêm là người đỗ đầu nhưng khoa thi (1715) không lựa chọn hàng Tam Khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) nên ông được xếp hạng Nhị giáp tiến sĩ - được gọi là Đình nguyên Hoàng giáp.

Sau khi đỗ quan, Bùi Sĩ Tiêm được bổ nhiều chức quan như Hàn lâm viện Hiệu lí (1717), Hiến Sát sứ Sơn Tây (1718), Đông Các hiệu thư (1720), Đông Các đại học sĩ (1727), Đốc đồng tỉnh Thái Nguyên (1729) rồi thăng Hoàng tín Đại phu Thái thường Tự khanh. Hơn thế nữa, khi nhậm chức Hiệu lí, Bùi Sĩ Tiêm vinh dự được giao soạn các bài văn bia tiến sĩ để dựng bia tại Quốc Tử Giám. Ông là tác giả của 5 bia đề danh tiến sĩ các khoa thi từ 1656 đến năm 1715.

Với tài năng và đức độ ấy, cuộc đời làm quan của Bùi Sĩ Tiêm chắc sẽ còn thăng tiến và Bùi Sĩ Tiêm chắc sẽ được hưởng nhiều bổng lộc của triều đình nếu như ông chỉ biết phục tùng những mệnh lệnh mà không dám can ngăn, không dám nói lời ngay thẳng để vạch ra những nguyên nhân khiến xã hội lúc đó rối ren, hỗn loạn, xuống cấp, nghèo đói.

Văn bia đề danh tiến sĩ khoa Ất Mùi niên hiệu Vĩnh Thịnh năm thứ 11 (1715) tại Văn Miếu Quốc Tử giám do Bùi Sĩ Tiêm soạn. Nguồn: Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Khải thập điều - “Khí phách trong suốt như băng tuyết, tấu bẩm như thuốc đắng đá châm”

Sách "Đại Việt sử kí tục biên" cho biết: Tân Hợi, năm Vĩnh Khánh thứ 3, tháng năm, ngày 25 (28/6/1731) chúa Trịnh Giang chỉ dụ cho các thân nhân đại thần và bách quan văn võ rằng: “Ta kế thừa nghiệp giúp chúa, giúp rập hoàng gia, một lòng kính trời, noi theo tiên tổ, một niềm lo trị nước, bảo vệ cõi bờ. Nơm nớp run sợ thức khuya dậy sớm, nghĩ lo muôn việc khó chu toàn đến nay. Chưa am hiểu nỗi gian nan của trăm họ, ngày từng mong nghe lời trung trực, khuyên bảo ân cần lo mở rộng kiến văn để mở mang đạo trị. Từ xưa không ai mượn nhân tài ở đời khác, điều đó ta chỉ mong vào đời nay. Hỡi các bề tôi chầu hầu lớn nhỏ hãy trình bày hết những điều thiết thực cốt yếu cho thích hợp với thời cuộc, ta sẽ tự chọn lấy để thi hành…”.

Nghe theo lời chỉ dụ của Chúa, Thái thường Tự khanh Bùi Sĩ Tiêm liền dâng khải gồm 10 điều (Khải thập điều) để trình bày, phân tích hiện trạng xã hội, những vấn đề cấp thiết cần phải cải cách, phòng ngừa và đề ra những biện pháp cải cách, sửa đổi, trong đó nhiều nội dung cấp tiến, nói rõ sự thật, những sự thật mà ông đã từng trải qua, từng chứng kiến sau gần 15 năm làm quan lăn lộn với nhân dân, hiểu thấu lòng dân.

"Quốc gia thừa hưởng thái bình đã lâu, trong nước an ninh biên thùy yên lặng, vốn không có việc gì đáng nói. Nhưng trong buổi thái hòa chí trị mà thánh nhân vẫn lo lắng như những câu "lúc chưa mưa phải sửa sang nhà cửa" (ý nói việc gì cũng cần phải có sự phòng bị trước) và câu “phải buộc chặt rễ dâu”, chính là những việc cần kíp lúc này.

Ngu tôi thiển nghĩ những việc thiết yếu của quốc gia chỉ có 10 điều là:

- Gắng tôn phù để tiêu tan biến dị.

- Dứt hẳn cầu cạnh để cho đúng tiêu chuẩn.

- Chăm đời sống của dân để bền mệnh mạch.

- Thận trọng chính sách dùng binh để mạnh nanh vuốt.

- Giảm bớt chức quan để đỡ phiền nhiễu.

- Bỏ nhũng lại để tắt nạn chài dân.

- Chấn chỉnh thể văn để khích lệ người hiền tài.

- Làm rõ lệ xét xử để cho thanh thỏa việc từ tụng.

- Liêm phóng tường tận để phân biệt người hiền, kẻ gian.

- Phân biệt nòi giống để chặn sự dòm ngó.

Mười điều ấy đều là rất cấp bách với thời cuộc. Ngu tôi dám quên tội mạo muội, nhảm nhí, kính cẩn bày tỏ, cúi mong được tha thứ cho sự ngông cuồng, lược bỏ điều sai, khiến cho một chút thiện nhỏ không bị bỏ sót lưu lớn được dựng lên, đó là phúc của hàng triệu sinh dân vậy".

Bùi Sĩ Tiêm - Khải thập điều.

Và kết cục sau khi Bùi Sĩ Tiêm dâng khải lên chúa Trịnh Giang, "Đại Việt sử kí tục biên" chép: “Mười điều ấy, điều đầu tiên nói việc truyền ngôi, lời lẽ rất tha thiết, còn chín điều kia phần lớn trái ý người chấp chính và những quyền thần yếu nhân nhiều kẻ không bằng lòng. Chúa Trịnh Giang xem đến cả giận, ra lệnh đoạt quan chức của Bùi Sĩ Tiêm, đuổi về quê…”.

Thời Trần, danh Nho Chu Văn An cũng vì nước vì dân dâng “Thất trảm sớ” (Sớ xin chém 7 nịnh thần) lên Trần Dụ Tông, nhưng không được chấp thuận, Chu Văn An đành “treo mũ từ quan” về quê dạy học. Như vậy, thái độ của Trần Dụ Tông đối với Chu Văn An, dù không theo lời sớ nhưng dẫu sao cũng chưa đến mức “cả giận mất khôn” như Trịnh Giang đối xử với Bùi Sĩ Tiêm.

Theo TS Nguyễn Thị Lâm, “Khải có nghĩa là mở ra, mở lòng ra để dãi bày. Các bề tôi dùng khải trình bày sự việc lên vua chúa để can gián, tranh luận, chúc mừng, tạ ơn, tiến cử… Khải có thể dùng biền văn hoặc tản văn, nội dung cần ngắn gọn, lời lẽ trang nghiêm kính cẩn”. "Đại Việt sử kí toàn thư" cũng chỉ chép việc Chu Văn An dâng sớ, nhưng không rõ nội dung sớ cụ thể là gì.

Đối với "Khải thập điều" của Bùi Sĩ Tiêm thì hậu thế có may mắn hơn, đó là sách "Đại Việt sử kí tục biên" đã chép lại toàn bộ những phân tích của Hoàng giáp Bùi Sĩ Tiêm trong 10 điều ông tâu lên với chúa Trịnh Giang. Những phân tích, đề xuất của Bùi Sĩ Tiêm không chỉ đúng với triều đại vua Lê, chúa Trịnh lúc đó mà có nhiều điều còn là bài học rất quý cho hậu thế ngày nay. Như điều thứ nhất: “Gắng tôn phù để tiêu tan biến dị”, Bùi Sĩ Tiêm một mặt phê phán việc Trịnh Cương bỏ Dụ Tông, lập Duy Phương năm 1729, một mặt khái quát hóa để đưa ra những lời khuyên chân thành để Chúa sửa sang việc nhân sự, chuyển dữ thành lành, biến xấu thành tốt: “Cúi mong chúa nghĩ công cũ vun trồng, chớ để cuối cùng bại hoại; nối chí tổ tiên tôn phò, chớ để sa sút. Việc đáng làm thì phải làm, đừng để lời nói nghi ngờ của bọn tiểu nhân mê hoặc, nghĩa là nên mạnh dạn quyết đoán thì chớ câu nệ vào câu “ba năm không đổi việc làm của cha. Làm việc lớn không đạt được quyền nghi chấn chỉnh đạo thường muôn đời không thay đổi để ngăn sóng to muốn vỡ đê, kéo lại mặt trời lúc sắp lặn. Như thế thì tự nhiên tai biến ngày dần mất, phúc lộc ngày một thêm. Cơ nghiệp nhà vua nhà chúa ức muôn năm không thể lay chuyển được. Đây gọi là gắng tôn phò để tiêu tan biến dị vậy”.

Hoặc như điều khải thứ hai “Dứt hẳn cầu cạnh để cho đúng tiêu chuẩn”: Bùi Sĩ Tiêm cho rằng, từ “tiên triều” trở lại đây, “lệnh có cái không thi hành, ơn trạch có chỗ chưa thấm, chỉ vì có sự cầu cạnh hoành hành, mở ra đầu mối rối loạn pháp luật”. “Phàm những việc kiện tụng thẳng hay cong; việc thuyên bổ cao hay thấp; khảo “hạch” được hay hỏng; công lao lâu hay mới; hộ khẩu tăng hay giảm; phú dịch có hay không; noi theo lẽ công mà làm ít, dựa theo của cải mà làm thì nhiều. Rốt cuộc khiến cho triều đình có bề tôi khinh nhờn luật lệ; nước nhà có những bọn khinh thường hiến chương. Pháp luật không thi hành được là bởi cớ ấy”. Bởi thế nên “kính mong chúa mở rộng đức lớn chí công, tỏ biểu tượng chí chính. Nghiêm cấm thần dân trong nước vô cớ ra vào nơi cung cấm và ton hót với thần thế quan nha, xin làm con nuôi hoặc đệ tử. Kẻ nào lén lút làm chuyện hối lộ để thỉnh thác thì chiếu luật trị tội, người ăn của đút cũng phải khép vào luật. Mọi việc quan hay dân ai có việc cần khai tấu, đều cho quỳ dâng. Nếu có kẻ gửi gắm người quen thỉnh thác nội thần đều tùy theo nặng nhẹ mà luận tội. Người nhận gửi gắm cũng phải trị tội. Cốt cho cái cửa tà vạy cong queo vĩnh viễn đóng lại, con đường công bằng trong sạch được đi lại thong dong”.

Hoặc như ở điều thứ năm “Giảm bớt chức quan để đỡ phiền nhiễu”, Bùi Sĩ Tiêm tâu rằng, “đặt quan chia chức đều là vì dân. Bản triều đặt quan đều theo chế độ cũ; trung gian danh hiệu và số người có hơi khác, tiến cử sử dụng sai trái, dân ít quan nhiều, chẳng khỏi nhũng tệ”. Vì vậy, để giải quyết tệ này thì “Liệu việc mà bổ quan, xem đất mà chia trị”. Việc sáp nhập, tinh giản bộ máy hành chính cũng phải làm phù hợp với thực địa, yêu cầu công việc: “Từ trước các phủ huyện thống thuộc ở các hạt, nhiều ít không đều, hoặc một vài huyện châu cũng đặt làm một phủ; hoặc một, hai mươi xã cũng đặt làm một huyện, một châu, chỉ có một nha môn bé nhỏ mà cũng đặt đủ số quan lại, việc công việc tư đều khó kham nổi. Nay cứ ước lượng lấy bốn huyện châu làm một phủ nhỏ, năm mươi xã làm một huyện nhỏ, còn không đủ số ấy thì tùy nơi tiện, gần mà hoặc là san bổ sang hạt khác, hoặc gộp những nơi ít thành nhiều, khiến cho không có sự khác nhau quá giữa nơi ít, nơi nhiều. Một khi quận, huyện đã giảm thì số quan không nhiều. Lúc ấy mà lại thưởng cho người vỗ về, chăn dân giỏi, nghiêm cấm hình phạt bạo ngược, hà khắc, thì quan không tham lam cầu cạnh, dân không bị mệt nhọc phiều nhiễu. Như thế gọi là giảm bớt chức quan để đỡ phiền nhiễu vậy”.

Hoặc như điều khải thứ bảy: “Chấn chỉnh thể văn để khích lệ người hiền tài” thể hiện trí tuệ và tầm nhìn của Bùi Sĩ Tiêm ở góc độ giáo dục đào tạo để lựa chọn nhân tài cho đất nước. Ông cho rằng, “Văn chương là công cụ kén chọn học trò, là thứ của tô điểm nhà nước”. “Chưa đầy 20 năm mà đầu đề ra trong kì thi hội lại chia ra từng điều, giải nghĩa từng câu như cũ. Kẻ ra đề thi thì chọn những bài văn người ta ít học đến để thí sinh cầu may khó làm nổi. Quan chấm trường thi hâm mộ việc ám tả lời cũ mà quên việc lược giảng tâm thuật. Thậm chí cho thánh kinh là dấu vết cũ kĩ; cho cổ sử là câu chuyện nhàn đàm, chỉ chăm chăm vào những lời nói phù phiếm trong đối sách của chư tử để làm câu thần diệu mở đề. Rốt cuộc khiến cho sĩ tử trong một thời coi thường việc học sách kinh mà chỉ nghiên cứu các sách linh tinh”.

Để giải quyết vấn đề này, Hoàng giáp Bùi Sĩ Tiêm đề xuất “xin dốc lòng tôn sùng cái học chính thống, chấn hưng phong thái nhà Nho, khôi phục lối văn hồn hậu đời Hồng Đức, thay đổi thói viết chi li đời Trung cổ”. “Việc hỏi thăm về văn sách nên giảm bớt điều mục mà cầu ở điều thiết thực cốt yếu. Văn cổ thì hỏi đại lược phải trái để xem học lực nông, sâu của học trò; văn kim thì hỏi những việc thời vụ cơ nghi (việc thời thế, cơ sự và cách nên giải quyết thế nào) để xem xét mưu trí cao thấp. Khoa trường theo đấy mà chọn người; người đi học theo đấy mà tiến thân, như vậy không có thể văn nào là không xuất phát từ lẽ chính đáng. Sẽ thấy bậc túc nho học rộng đi thi, có thể dễ đỗ, còn bọn “nhãi ranh học vẽ” hết lối để đánh lộn sòng. Thế rồi người đỗ đại khoa đều có lối văn kinh luân, hữu dụng; người ra làm quan đều có sẵn cái học “tu tề trị bình”. Các bậc hiền tài cùng tiến mà thế đạo cũng rõ ràng phát huy. Như vậy gọi là chấn chỉnh thể văn để khích lệ người hiền tài vậy”.

Những dòng cuối cùng của "Khải thập điều", Bùi Sĩ Tiêm cho rằng để thực hiện được mười điều cấp bách này, “nếu được người giỏi mà thực hiện thì đủ làm nên chính sách trị bình. Nếu không được người tài giỏi thực hiện thì cũng chỉ là phép không mà thôi”. “Người xưa có câu rằng: hữu trị nhân, vô trị pháp (nghĩa là chỉ có người cai trị giỏi chứ không có phép cai trị hay) đó là lời bàn sâu sắc. Nhưng muốn dùng được người giỏi thì tự thân vua chúa phải bắt đầu. Cúi mong thánh thượng giữ đức trong sáng, cầm lòng trung chính. Cầm giữ cho nghiêm không bị chuyển dời bởi người thân cận, tinh tế ở sự quyết đoán, không bị che lấp mê hoặc bởi bọn gian nịnh. Trung, nịnh, chính, tà không có cái gì trốn được dưới đuốc sáng. Tha, giết, cho, lấy không có gì bị nhiễu trước quyền hành. Như thế thì bậc hiền sĩ phấn khởi được dùng, kẻ gian không còn được đắt, quy mô rộng lớn trị bình có thể dựng lên, nền thịnh trị tốt đẹp tin sẽ tiến tới".

Chân dung Uy Nam vương Trịnh Giang, in trong sách “Trịnh gia chính phả” của Nhật Nam Trịnh Như Tấu, năm 1933. Ảnh tư liệu: Nguyên Phong.

Đến 5 bài kí trên Văn bia tiến sĩ đề danh: “Lấy chính trực trung hậu mà đứng giữa triều đình, lấy đạo đức nhân nghĩa mà giúp chủ

Từ lúc thi đỗ ra làm quan, đến lúc dâng "Khải thập điều", Bùi Sĩ Tiêm được triều đình trao trọng trách viết 5 bài kí trên văn bia tiến sĩ đề danh tại Văn Miếu Quốc Tử giám. Đó là 5 bài kí vào các khoa thi năm: Bính Thân (niên hiệu Thịnh Đức năm thứ 4, 1656), Canh Tuất (Niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 8, 1670), Ất Sửu (niên hiệu Chính Hòa năm thứ 6, 1685), Canh Thìn (niên hiệu Chính Hòa năm thứ 21, 1700) và khoa thi năm Ất Mùi (Niên hiệu Vĩnh Thịnh năm thứ 11, 1715).

Chúng ta đều biết, các bài kí đề danh tiến sĩ ở Văn Miếu phải viết theo những chuẩn mực văn học cổ trung đại. Theo GS Phan Văn Các, các bài kí của 82 bia tiến sĩ Văn Miếu thuộc thể loại Văn biện luận. Theo đó, văn biện luận là những bài văn lấy phân tích sự lí, biện minh phải trái làm chính. Và, các bài kí đều chung một chủ đề: Đề cao hiền tài, sùng thượng Nho học, khuyến thiện trừng gian; kẻ sĩ phải lo bảo toàn danh tiết, giúp vua lo dân.

Tìm hiểu 5 bài kí của Bùi Sĩ Tiêm trên Văn bia tiến sĩ đề danh ở Văn Miếu, chúng ta không chỉ thấy rõ chủ đề như GS Phan Văn Các đã tổng kết ở trên, mà qua đó thấy tư tưởng và tính cách của ông: Cương trực, dốc lòng vì nước. Trong Văn bia đề danh tiến sĩ khoa Bính Thân niên hiệu Thịnh Đức năm thứ 4 (1656) ông viết: “Trời sinh người hiền là muốn dùng cho đời, người hiền ở đời cũng muốn gặp minh quân. Bậc nhân quân thể theo ý trời để cầu tìm hiền tài, nếu biết thu hút, thi thố thì sẽ thấy được hiệu quả của việc lựa chọn nhân tài”. Câu này không chỉ đề cao hiền tài mà còn đề cao việc thu hút, tuyển chọn và sử dụng nhân tài. Nó không chỉ mang lại danh cho kẻ sĩ mà còn mang lại nhiều mối lợi cho quốc gia, dân tộc.

“… phải nhớ tới lòng trời ưu ái, cảm ơn sự biểu dương ngày nay, tuổi già tiết cứng, nêu gương cho phường hậu tiến, hun đúc nên tập tục trung tín liêm sỉ, chớ cậy may mắn mà lợi dụng vơ vét, thế là tốt đẹp trong sự tốt đẹp vậy. Còn những người hậu tiến sờ vào tấm bia này, nhìn thấy tên họ các tiền bối mà cầu tìm thực chất của họ. Người nọ sự nghiệp lớn lao xa rộng, đã sống lâu mà lại mạnh khỏe thì tiết tháo kinh lịch của người ấy phải như thế nào? Người kia công tích ít ỏi, việc làm nông cạn, có hoa mà chẳng có quả, thì tiết hạnh người ấy xem ra thế nào? Nếu là người thiện thì phải coi làm thầy mà noi theo; nếu là kẻ ác thì phải lấy đó làm răn cho mình, làm sao để không phụ ý khuyến khích hết mực của thánh triều”.

Bùi Sĩ Tiêm - Văn bia đề danh tiến sĩ khoa Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 8, 1870.

Đoạn dưới đây do Bùi Sĩ Tiêm viết trong văn bia đề danh tiến sĩ khoa Canh Thìn, niên hiệu Chính Hòa năm thứ 21 (1700), viết cho triều đình, cho nền giáo dục khoa cử nước nhà mà cứ như là viết cho bản thân, nói lên tấm lòng của ông với triều đình vậy. “Sĩ đại phu xuất thân từ khoa cử, được tin dùng long trọng, đãi ngộ đã ưu hậu, lại được khắc họ tên trên đá tốt dựng ở nhà Quốc học, khiến cho mọi người thấy được sự vẻ vang ái mộ, lưu tiếng khen đến vô cùng. Ơn khích lệ khen thưởng như thế có lẽ khó nói hết bằng lời. Vậy thì kẻ sĩ được đề danh vào bia đá này, sự đền đáp phải nên thế nào? Cố nhiên là phải khắc ghi ơn sâu, trau dồi đức hạnh, rèn giũa tiết tháo như giữ ngọc gìn vàng. Khí phách phải trong suốt như băng tuyết, tấu bẩm phải như thuốc đắng đá châm, không xuê xoa dễ dãi; nói bàn phải chắc chắn thẳng ngay, không a dua dựa dẫm, suy nghĩ thì phải lo làm sáng pháp độ hoàng gia. Làm trụ đá cho miếu đường, đặt quốc gia vào chốn vững yên như Thái Sơn bàn thạch, cùng vui với nước cho đến khi sông cạn đá mòn. Như thế thì danh tiếng cùng với bia đá này sẽ thơm truyền mãi mãi không nát vậy. Thảng hoặc có kẻ ngoài cứng trong giòn, trước trinh chính mà sau vẩn đục, danh thực không hợp, lời nói trái ngược việc làm, thì cũng như viên ngọc bị xơ xước, không thể che giấu được, chỉ làm vết nhơ cho bia đá này”.

“Khí phách phải trong suốt như băng tuyết, tấu bẩm phải như thuốc đắng đá châm, không xuê xoa dễ dãi”, những điều này phải chăng chính Bùi Sĩ Tiêm đã thực hiện bằng "Khải thập điều" năm 1731, sau khi ông viết những dòng này 30 năm đó sao? Khí phách đó đã phải trả giá bằng sự trừng phạt của chúa Trịnh Giang với ông là tước quan, đuổi ông về quê. Khí phách và nhân cách của bậc trượng phu là thế đó, nói được và làm được. Tư tưởng này còn xuyên suốt đến năm 1715 khi ông viết Văn bia đề danh tiến sĩ khoa Ất Mùi, niên hiệu Vĩnh Thịnh năm thứ 11 (1715): “… phải giữ mình trong sạch liêm chính, giữ lòng trong trắng, lấy chính trực trung hậu mà đứng giữa triều đình, lấy đạo đức nhân nghĩa mà giúp chủ, khiến cho thanh danh lừng lẫy, sự nghiệp lỗi lạc, thì người đời sau sẽ chỉ tên mà khen ngợi. Thảng hoặc có người tâm đổi chí dời, lời nói việc làm trái ngược, chỉ nghĩ đến tiền tài quan tước, chỉ mưu đồ toan tính được mất, bên ngoài thì tỏ ra khí khái cương trực mà bên trong thì hèn nhát dua đời, việc làm trái với sở học, mà khi thành đạt thì xa lìa chính đạo, khiến cho danh tiết nhơ bẩn, xú uế sĩ phong. Như thế thì người đời sẽ chỉ tên mà chê cười, công luận nghiêm buốt, ngàn năm sáng rệt”.

Trong "Lịch triều Hiến chương loại chí", Phan Huy Chú nhận xét về Bùi Sĩ Tiêm: “Ông vì việc can thẳng phải về nhà, phong độ tiết tháo lại lẫm liệt; thiên hạ đều kính mộ”.  Đến đời Cảnh Hưng triều đình mới truy trả lại chức cũ, tặng cho hàm Tham chính, tước Trung tiết hầu và cấp ruộng để thờ cúng. Ông là người trung nghĩa, tiết tháo, dám nói, không sợ phiền hà đến bản thân. "Khải thập điều" của ông như một kim chỉ nam để cải cách xã hội, thay đổi xã hội đương thời. Tiếc là chúa Trịnh Giang đã không biết nghe lời người trung như ông mà theo lời kẻ nịnh, ăn chơi xa xỉ, tin dùng hoạn quan, gian nịnh; làm nhiều việc ác, không được lòng dân. Cho nên giai đoạn chúa Trịnh Giang cầm quyền, xã hội rối ren, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra và đây là giai đoạn bắt đầu đánh dấu sự suy vong cơ đồ nhà Trịnh.

Khi xã hội đã không biết trọng dụng, lắng nghe hiền tài, sĩ phu thì không thể phát triển, tiến bộ và đó là xã hội có nhiều nguy cơ suy vong. Thời nào cũng có hiền tài, sĩ phu, có điều những đấng quân vương, minh chủ lắng nghe và sử dụng nhân tài đó như thế nào mới là quan trọng.

Ngày nay, thành phố Thái Bình đã có con đường mang tên Bùi Sĩ Tiêm, như một minh chứng lịch sử luôn ghi nhớ và khắc ghi những bậc hiền tài dốc lòng, dám liều mình vì nước. Trong "Quốc âm thi tập", Nguyễn Trãi có viết: Còn một lòng âu việc nước / Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung (Thuật hứng 23). Sẽ là không sai khi nói rằng câu thơ này của Ức Trai tiên sinh rất đúng và hợp với Đình nguyên Hoàng giáp Bùi Sĩ Tiêm, một kẻ sĩ thời Lê - Trịnh.

Nguyên Phong
Tin khác
Truyện ngắn của nhà văn Phạm Ngọc Tiến: Thăm thẳm vòng đời
Truyện ngắn của nhà văn Phạm Ngọc Tiến: Thăm thẳm vòng đời

Non tháng nữa là Tết nhưng nắng cứ vàng rờ rỡ cả ngày, còn may trời vẫn se se lạnh lúc cuối chiều nên cữ đạp xe thể thao thường nhật của ông Cả Ngưỡng xem ra nhàn nhã khác hẳn ngày hè nóng nực hay tiết thu thất thường khi oi nồng lúc mát mẻ.

Giao thừa bâng khuâng những hương vị hoài niệm xa xưa
Giao thừa bâng khuâng những hương vị hoài niệm xa xưa

Giao thừa bâng khuâng thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, như réo gọi những thanh âm một thời xa xưa từ ký ức vọng về từng đợt nôn nao.

'Trời đã mới người càng nên đổi mới'
'Trời đã mới người càng nên đổi mới'

Bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, ta hãy cùng đọc, cùng ngẫm để cùng thấm tư tưởng sống này của Phan Bội Châu.

Nhà nghiên cứu đam mê khám phá phong tục thờ cúng cổ truyền
Nhà nghiên cứu đam mê khám phá phong tục thờ cúng cổ truyền

Nhà nghiên cứu Trung Chính Quách Trọng Trà nhân dịp Tết Ất Tỵ vừa giới thiệu cuốn sách ‘Thờ cúng cổ truyền Việt Nam – Nghi lễ và thực hành nghi lễ’.

Sài Gòn cuối năm âm thầm bao nhiêu thương nhớ
Sài Gòn cuối năm âm thầm bao nhiêu thương nhớ

Sài Gòn cuối năm bao giờ cũng vội vàng, sự hối hả của đô thị phương Nam dường như dồn lại trong những tờ lịch cuối cùng rời khỏi bloc lịch.

Một tiếng cười xua tan mọi cay cực nhân gian
Một tiếng cười xua tan mọi cay cực nhân gian

Một tiếng cười từ người xưa luôn có sức gợi mở hy vọng cho người nay. Năm Ất Tỵ 2025, kỷ niệm 110 năm ngày sinh của nhà văn Nam Cao (1915 - 1951) thì thử tìm một tiếng cười trong trang viết tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán, cũng là điều thú vị.

Người làng... đã thành người phố
Người làng... đã thành người phố

Tốc độ đô thị hóa đáp ứng những nhu cầu mới xuất phát từ sự thay đổi cơ cấu và tính chất của cư dân nông thôn hiện nay dường như đang phát triển đầy tính tự phát và có nguy cơ dẫn đến phá vỡ những cảnh quan nông thôn bao nhiêu đời nay.

Cuối tháng Chạp chợt thương một giọng chợ xa xôi
Cuối tháng Chạp chợt thương một giọng chợ xa xôi

Cuối tháng Chạp chộn rộn người xe tất bật, những buổi chợ cũng vội vàng bao nhiêu giọng điệu gợi lên nhiều kỷ niệm xôn xao về năm cũ sắp trôi qua.

Những người đàn bà đi máy bay Pháp tìm chồng qua vùng giới tuyến
Những người đàn bà đi máy bay Pháp tìm chồng qua vùng giới tuyến

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ vào đầu tháng 5/1954, mẹ tôi và nhiều người phụ nữ ở Quảng Bình đã vào tận Huế để tìm và cùng chồng trốn lính trở về quê…

Đàn trâu của nhà thơ Phạm Đức
Đàn trâu của nhà thơ Phạm Đức

Thơ hay thường vận vào người. Chung cuộc, cho tới khi rũ áo ra đi, nhà Thơ Phạm Đức chỉ có một mình. Gia tài ông để lại là căn nhà bên mép sông Bùi còn chưa hết nợ, một tủ sách đồ sộ mấy trăm cuốn. Và đàn trâu…, gần hai trăm con.

Tác giả trẻ có một ‘dị bản’ được trao giải thưởng văn học
Tác giả trẻ có một ‘dị bản’ được trao giải thưởng văn học

Tác giả trẻ Nguyễn Đinh Khoa với truyện dài ‘Dị bản’ vừa được Hội Nhà văn TP.HCM trao giải thưởng văn học dành cho các cây bút dưới 40 tuổi.

Sự kiện